Nội Dung
Giới
thiệu - Tựa
I. Từ An Vi tới Vô Vi
II. Tổng quan về Thiền
III. Tiến trình xuất
hiện của Vô Vi
IV. Vô Vi với cơ cấu
V. Lốt chân đạo nội
VI. Trống Việt thường lung
lay bóng Phật
PHẦN
PHỤ TRƯƠNG
VII. Những hàm ngụ
trong Tây Du Ký
VIII. Từ đốc hành tới
hoá nhi đa hí lộng
IX. Tóm kết
X. Vài cảm nghĩ về bản
dịch "Quyển Chơn Lý"
XI. Chính phương
pháp và hiện thực
XII. Từ hoang mang tới
tôi cuời tôi
XIII. Từ cuỡng hoà đến
an hoà
TỰA
Từ
hơn mười năm nay bên Việt Nam xuất
hiện một lối tu Tâm dưỡng
tính mới gọi là
Pháp lý Vô vi
và quãng từ 1980
thì truyền bá mạnh trong
các cộng đồng người Việt hải
ngoại. Hiện nay số thiền đường đã
lên tới gần một trăm ở rải
rác khắp năm châu:
Âu, Á, Mỹ, Phi, Úc
đều có cả.
Thoạt nhìn thì
tưởng đâu là một thứ Yoga
của Ấn Độ hay một chi nhánh thiền
của Phật giáo. Nhưng xét
kỹ tới đợt cơ cấu thì mới thấy
đó là một kết đúc
tinh hoa của nhiều đạo pháp
tâm truyền khác nhau, nhưng
về mặt triết lý thì phần
căn bản hơn hết là do Việt Nho:
cái xương sống của bộ triết
lý An vi được khai quật lên
từ Việt Nho cũng thấy chính
là bộ xương sống của Vô vi,
đến nỗi nói được Vô vi
chính là đạo nội của Việt
Nho nhưng xưa thì bí
truyền đến nay thì phổ truyền sau
khi đã được phục hoạt một
cách dị thường đặc biệt. Bởi vậy
tôi đề tựa quyển là
Trùng Phùng Đạo Nội với
mục đích nghiên cứu
Vô vi theo cái nhìn
của An vi, vì thế đồng thời
nó cũng là bản tóm
triết lý An vi, nhất là về
cơ cấu, bởi có đứng trong phương
diện cơ cấu mới nói được Vô
vi giống với An vi như mặt trong với mặt
ngoài của một đồng tiền, như nội
thánh ngoại vương, đến nỗi
nói được rằng huyền sử của An vi
chính là tiền sử của
Vô vi. Đây quả là một
duyên phúc lớn lao cho
dân tộc Việt. Vì vậy quyển
này muốn là một Việt Nam
kiện An vi tiếp nhận Vô vi,
và Vô vi được công
khai kể như một kết tinh trác
việt nảy mầm từ trong di sản
thiêng liêng của dân
tộc.
Kim Định
I. Từ An
vi tới Vô vi
1.
Vô Vi và Vô Vi
Nói
đến Vô Vi người ta nghĩ ngay đến
Phật và Lão vì
nhà Phật theo thuyết Thái Hư
với khẩu hiệu “vạn pháp giai
vô”, Lão thì
lấy “chí hư cực”
làm cứu cánh, còn hữu
vi là Nho. Nhưng khi nghiên
cứu tường tận thì hai chữ Vô
Vi lại do Nho: lần đầu tiên trong
quyển Luận Ngữ chương XV câu 4 rằng:
“Tử viết: Vô Vi nhi trị giả, kỳ
Thuấn dã dư. Phù hà
vi tai? Cung hỷ chính Nam diện
nhi dĩ hĩ = Thầy rằng: trong những
người dùng đạo Vô Vi trị nước
thì phải kể tới ông Thuấn:
ông có làm chi
đâu chỉ cung kính giữ
mình, ngồi quay mặt về hướng Nam
mà thôi”. Câu
này có tính
cách chính trị sẽ được giải
rộng bằng nhiều câu có
tính cách siêu
hình trong cả Kinh Dịch, Đạo Đức
Kinh. Ở đây chỉ xin trưng một
câu trong sách Trung Dung:
“Bất
hiện nhi chương
Bất
động nhi biến
Vô
Vi nhi thành”
Không
hiện mà rõ
Không
động mà biến
Không
làm mà thành.
Như vậy là thuật ngữ
Vô Vi có trước Lão
(1).
Sách
Trung Dung chỉ là bản tóm
của Kinh Dịch, một bản kinh chính
cống Vô Vi, bởi ban đầu vốn
là kinh vô tự, và
là của Việt tộc. Thành thử
chính nguồn gốc tối hậu của
Vô Vi là do Việt Đạo cũng gọi
là Đạo Trống (mà Trống Đồng
đã nói lên một
cách tuyệt diệu, xem chương V Sứ
Điệp).
Xưa
người ta cứ yên trí
Lão Tử đồng thời với Khổng Tử
là sai do cái lầm của Tư
Mã Thiên lẫn Lão Tử
với một nhân vật huyền thoại. Điều
này đã được chứng minh,
nên nay các học giả quốc tế
đặt Lão vào thời Chiến Quốc
quãng thế kỷ IV-III tr.c.n (xem chi
tiết trong Needham II tr.35).
Xin
xem lại bài Nét Song
Trùng ở quyển Kinh Hùng để
biết đó là nét đặc
trưng của Việt lý, nó
khó vô cùng: vì
tính cách hàm hồ căn
bản của nó là
có-không,
không-có. Nếu chỉ hẳn
“có là có” như triết
Tây, hoặc “không là
không” như triết Ấn Độ thì
là sự thường. Còn có
mà lại không, không
mà lại có thì chỉ
thấy cách hệ thống nơi Việt tộc với
nền siêu hình gọi là
“Đạo Trống”. Chữ Trống bao hàm cả
có lẫn không, tức phải
có cái gì mới
không được: cái hang trống,
cái nhà trống. Nói
Đạo Trống phải hiểu là tâm
trí phải được trống trơn
không bận tâm đến những
gì xảy ra tới hay nghĩ ngợi về
những gì đã xảy ra.
Đó là điều kiện rất tốt để
đạt tâm linh.
Nguyên
Nho đã công thức nổi Đạo
Trống trong hai chữ âm dương:
âm là không, dương
là có. Về sau không
và có được mở rộng trong
câu nói thời danh là “vô
cực nhi thái cực” vô
cực mà vẫn thái cực.
Đó là dấu Nguyên Nho
bảo tồn nổi tính chất hàm hồ
của Việt Đạo. Hãy đọc lại câu
sách trên sẽ rõ: “bất
biến nhi chương, bất động nhi biến,
vô vi nhi thành”. Bất
biến là không, nhưng
không mà lại có,
vì có mới chương ra được.
Bất động là không, nhưng lại
biến được nên là có.
Vô vi là không nhưng
không mà lại thành,
nên là có: vì
có mới thành được chứ.
Chính
từ trong tư tưởng có mà
không, không mà
có này mà nảy ra
câu ngạn ngữ “chân
không diệu hữu”, để sửa lại
lối hiểu không là không
có gì, mà phải hiểu
rằng cái có với không
đang nói đến ở đây phải hiểu
trên đợt siêu hình
tâm linh, chứ không được hiểu
ở đợt hiện tượng, nơi đây có
là có, không là
không phân minh rành
rọt. Cái có với không
này mọi người đều biết và
phải dùng hằng ngày trong
cõi hữu hình. Muốn đạt
“có không” kiểu siêu
hình phải đi ngược chiều. Muốn
có lại phải đi tìm
không, tìm cho tới cái
Chân Không mới trông đạt
Diệu Hữu.
Sách
Trung Dung nói muốn đạt chân
không phải đi tới “vô
thanh vô xú”
(lý tưởng của Trung Dung).
Đó là điều cực kỳ
khó, phải vượt được 4 đợt là
vô hình, vô tượng,
vô thanh, vô xú. Phần
lớn triết học chỉ vượt đợt siêu
hình, không đi nổi bước hai
là siêu tượng, đã vậy
làm sao đến hai cấp sau là
siêu thanh, siêu xú.
Triết duy ý vượt được siêu
hình nhưng kẹt lại đợt tượng
(tôi gọi là ý hệ do
chữ tượng ý). Triết duy thức (phi
thế) kẹt lại đợt thanh (tức danh từ chữ
nghĩa nên kinh sách man
vàn). Xuất thế của Lão kẹt
lại đợt xú, tức tiềm thức bị
cái không ám ảnh:
quá chú ý đến
cái không đến lơ là
cái có. Riêng Việt Nho
đã có lần đi qua cả 4 đợt
như được ghi lại trong sách Trung
Dung.
Sách
đó đã đưa ra một
nguyên lý tuyệt diệu trong ba
chữ “Chí Trung Hòa”
lấy từ câu phát đoan của
sách rằng: “Trung dã giả
thiên hạ chi đại bổn dã,
Hòa dã giả thiên hạ
chi đạt đão dã, Chí
trung hòa thiên địa vị
yên, vạn vật dục yên”.
Như vậy Trung là gốc rễ của Đạo,
còn Hòa là hậu quả
của đạt Đạo, tới được Chí Trung
Hòa thì thiên
và địa được định vị, và vạn
vật được nuôi dưỡng. Muốn biết Trung
đi tới đâu trên nấc thang dẫn
tới “vô thanh vô xú”
thì xem hậu quả có bao
hàm toàn bộ chăng.
Toàn bộ đó gọi là
diệu hữu, diệu hữu phải gồm cả có
lẫn không, cả sáng lẫn tối...
được như vậy mới là Chí
Trung, mà có Chí
Trung mới đạt Chí Hòa,
là hòa được cả có với
không, động với tĩnh, nhất với đa...
Ngược lại không hòa tới nơi
thì hiểu là Trung chưa tới
cùng tột, mà Trung
không cùng tột thì
không thể ôm cả Có với
Không một trật. Nói
khác Chí Trung là
Vô vi. Chí hòa
là hậu quả. Vô vi thì
vô hình ta khó
có thể xét nội tại cao thấp
tới đâu, nhưng Chí Hòa
là cái đã hiện
hình ra ngoài thì ta
có căn cứ vững làm thước đo.
Chỉ xem thuyết lý nào
gây được chí hòa cao
thấp đến đâu là biết được độ
Vô vi của thuyết đó.
Nói cụ thể vào người
thì vạn vật hiểu là
tình lý, tiểu ngã đại
ngã. Tình được nuôi
dưỡng tài bồi mà lý
trí cũng được phát triển,
không duy tình hay duy
trí. Tiểu ngã được chăm nom
mà Đại ngã cũng được vun
bồi. Thế mới là Thiên Địa vị
yên, vạn vật dục yên.
Nói vào An vi là Hữu
vi được chăm sóc, mà
không bỏ bê Vô vi, trược
cũng học mà thanh cũng học v.v...
Đấy là đại để nguồn gốc và
ý nghĩa sâu xa của Vô
vi. Thứ Vô vi này là
nền tảng cho tam giáo Thích,
Lão, Nho. Nhưng sau tất cả đều suy
vi thoái hóa.
Chính
vì chỗ suy thoái chung nọ
mà chúng tôi phải đặt
ra tiếng mới là An vi chống với cả
Vô vi lẫn Hữu vi để trình
bày khuôn mặt chân
truyền của nền triết Việt theo nghĩa Việt
là phải thực sự siêu việt.
Khi cái nào siêu việt
thực sự thì nó bao
hàm chính cái
nó vượt qua khi đã gạn lọc
cho sạch cát bụi, thí dụ
Vô vi chính truyền có
bao hàm cái Hữu vi, nếu
không bao hàm nổi thì
cái Vô vi nọ trở thành
thứ duy nào đó tức đã
sa đọa. Chính bởi Việt lý
(tên mới là An vi) đã
bao gồm được cả hữu vi lẫn vô vi,
nên trong thực tế nó gặt
hái được nhiều kết quả hơn hẳn hai
đối cực kia. Nó hơn hữu vi
vì đã thiết lập nổi nền
Nhân chủ khiến con người được hưởng
thong dong tự tại, được đặt vào vị
trí ngang Trời cùng Đất.
“Trời đất ta đây một
chữ Đồng”.
An vi
cũng đạt được nền Dân chủ, tức thiết
lập được chế độ bình sản cũng như
phá được chế độ nô lệ.
Đó là hai ân huệ căn
bản cho kiếp người mà trong 25 thế
kỷ qua không nền triết nào
đạt được đến độ bằng triết lý An
vi.
2.
Tại sao lại chấp nhận Vô vi?
Thế
tại sao nay lại dọn nhận Vô vi? Thưa
Vô vi được đón nhận ở
đây là một Đạo Pháp
phải viết hoa để chỉ đó là
Đạo Pháp mới được Thượng Đế ban cho
loài người, nó chưa bị suy
thoái như sẽ nói đến sau về
quyển Chơn Lý với hiện tượng
Kim-Thân-Cha. Chính hiện
tượng này đã làm
tôi kính nể Vô vi
và cuối cùng chấp nhận.
Quả
thực đây là Vô vi thứ
thiệt. Vô vi đến Việt Nam tận
cùng nên rất cân đối
có cả trong lẫn ngoài, cả
trược lẫn thanh. Đây quả là
một phương pháp thực tiễn căn cứ
trọn vẹn trên con người, không
dùng cái gì bên
ngoài: không kinh kệ,
không tượng ảnh, tuyệt đối đề cao
con người, hoàn toàn
dân chủ: cả đến nhà truyền
pháp cũng không chịu xưng
là thầy, tất cả đều là bạn
đạo. Đó là điều đặc biệt của
Vô vi, và đó là
chỗ đáng nể hơn cả, bởi như vậy
Vô vi tỏ ra có tinh thần mạnh
khỏi cần tổ chức.
Tổ
chức chỉ cốt để trợ lực cho tinh thần.
Tinh thần còn cần trợ lực nhất định
không mạnh bằng thứ không cần
tổ chức. Vì tổ chức là phần
hữu vi sắc tướng, tuy có hỗ trợ
tinh thần được phần nào, nhưng cũng
tạo điều kiện cho người đời lợi dụng: xưa
nay “lấy đạo tạo đời” là thường, tư
nhân cũng như chính quyền.
Có tôn giáo hay thuyết
lý nào trong dĩ vãng
không bị lợi dụng chưa? Mà
lợi dụng là đầu mối làm sai
lạc đạo pháp. Tất cả mọi thuyết
lý cũng như giáo lý
đều bị thoái hóa phần lớn
vì đó. Cho nên
không chịu cho tổ chức là
Vô vi tỏ ra đích thực
là Vô vi, Vô vi
chính tông, nó hứa hẹn
một tương lai chính truyền
miên viễn. Đây là điểm
đầu làm cho Vô vi không
là một tín ngưỡng mà
là một phương pháp khoa học
bất cứ người tôn giáo hay
triết thuyết nào cũng có thể
thực hiện.
3.
Vô vi giống An vi chỗ nào?
Ở đây chỉ cần nói
tổng quát rằng Vô vi giống
với An vi hơn tất cả mọi nền triết cổ xưa,
Đông cũng như Tây ở chỗ cả hai
đều nhấn mạnh đến chữ tự cường, tự lập.
Vô vi đặt trên chữ “tự tu
tự tiến” An vi đặt trên chữ “tự
đạo, tự thành” gọi là
đặt nền trên đợt An hành tức
bên trên Cưỡng hành
và Lợi hành. Cưỡng
hành là làm vì
sợ trời đánh thánh vật. Lợi
hành là làm để được
lợi lộc nọ kia có tính
cách vật chất, gọi tất là
Địa lợi tức những cái lợi có
thể cột chặt con người vào
cõi hồng trần. An hành
trái lại thấy đáng
làm là làm,
làm vì lẽ phải, vì
công ích, vì
thành nhân, tức là đặt
nổi chữ “tự chủ tự lập” không để
mình bị lợi dụng điều khiển.
Chính vì nét đặc
trưng chung này mà
xét đến cơ cấu và định đề
cũng như nguyên lý cả hai đều
như nhau, như sẽ được chứng minh sau.
Riêng về hành pháp
thì An vi có thất truyền
phần nào về mặt công phu
nhưng về công quả và
công trình thì
còn lại khá nhiều, nên
không đến nỗi chỉ lý thuyết
và biểu tượng suông mà
còn có nội dung chân
thực, đó là pháp “tôn
tâm dưỡng tính” với
những mối tình người cao cả, cũng
như những tôn chỉ hành xử:
nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín, tất cả đều làm
nên công quả công
trình đích thực. Nhờ thế
Việt Nho kể là bị suy thoái
ít nhất.
Khổng
Tử được tiếng là đã hiện
thực được bốn cái Vô trong
nội tâm là:
- Vô ý: không
bám vào ý niệm kiểu
duy lý.
- Vô tất: không
bám vào tất định kiểu tất
mệnh.
- Vô cố: không cố
chấp nhưng theo thuyết tuỳ thời.
- Vô ngã:
không bám vào tiểu
ngã nhưng cố vươn lên Đại
Ngã Tâm Linh.
Vì
thế bên ngoài tránh
được mấy cái hữu vi sắc tướng sau
là: không miếu mạo
chùa chiền, không cúng
vái cầu đảo, không đặt ra
hàng sư ni phương sĩ, không
thâu nhận mê tín dị
đoan... Kinh Điển cũng chỉ có chừng
mực, mà toàn nói về
đời sống sao cho hợp Đạo, còn
chính Đạo thì giữ
đúng câu “Đạo bất khả
ngôn” không dám
nói đến. Điều này đặc biệt
hơn cả, nhưng chính vì thế
mà người đời tưởng là Nho
chẳng có gì, mà
không ngờ rằng đó là
cái Không đầy ứ những
cái Có ẩn tàng.
Vô cực mà vẫn là
Thái cực (vô cực nhi
thái cực) tức là một
tay Vô vi cao độ vậy.
Về
công phu thì có song
bị thất truyền, nhưng còn thấy dấu
vết trong những câu nói của
môn đệ như “vừa học vừa tập vui biết
mấy”: “học nhi thời tập chi bất diệt
duyệt hồ”, hoặc người quân tử
nghĩ luôn đến rèn luyện con
người “như cắt như dũa, như đục như
mài”: “hữu phỉ quân tử
như thiết như tha như trác như ma”.
Phải có một hành pháp
nào, một lối sống công phu
nào đó mới có những
câu nọ. Những câu đó
quả là những dấu chỉ Tâm đạo
xưa, nhưng hành pháp
đích thực ra sao thì nay
không biết đích xác.
Chắc rằng nó nằm một phần trong lễ
nhạc, nhưng nhạc đã thất truyền
nên người sau không biết căn
cứ vào đâu mà theo.
Chính vì thế mà trong
công cuộc trở về nguồn tôi cứ
cố tìm cái hành
pháp nọ.
4.
Chiếc ghế hư linh đã có
tọa vị
Năm
đầu tiên vào dạy triết
Đông ở Đại học Sài Gòn
(1961) tôi đã khai mạc bằng
khoá giảng tựa đề là “Tự
Chiêu Minh Đức” nhằm phân
tích và quảng diễn bốn bước
định, tĩnh, an, lự trong đầu sách
Đại học:
Định
là định thần tập trung tâm
trí mà đích điểm
là đi tới chỗ định hướng tinh thần.
Tĩnh
là yên lặng hiểu cả về
xác thân, cảm xúc cần
được luyện lọc để trở nên thanh
thoát, cũng như về mọi nhu yếu
trong con người phải được nuôi dưỡng
(vạn vật dục yên)
thì không còn sự rấy
loạn.
An
là trạng thái an nhiên
tự tại trong hành động lẫn tư
tưởng: bao nhiêu sinh lực đều được
đầu tư trọn vẹn vào việc
làm.
Lự
là suy tư sáng suốt. Thường
người ta hay tư lự, đây phải
là an lự. Tư lự là suy tư
trên sự kiện, trên vật thể nhỏ
bé hoặc ích lợi tư
riêng vụn vặt. An lự suy tư về những
cái bao quát, về ích
chung, hoặc những gì thanh
thoát: nó dẫn đến an
hành, trong khi tư lự dẫn đến lợi
hành hay cả cưỡng hành.
Vì vậy chữ lự ở đây hiểu được
là hành. An lự cũng
là An hành.
Như
vậy đường tu có hai chặng một
vào một ra. Vào là
hai bước định tĩnh để đi tới Chí
Trung. Còn ra là hai bước An
và Lự: để tới Chí
Hòa: tức ra với đời, với sự việc.
Đó gọi là xử thế.
Chính do hai bước sau này
làm cho Việt Nho khác
màu sắc với Thích,
Lão. Ở Thích có thể
nói là chỉ có đi
vào: Định tĩnh rồi tịch diệt: niết
bàn, thái hư, nên gọi
được là phi thế. Ở Lão cũng
chỉ có đi vào: Định tĩnh rồi
ngồi lại nhà mà thủ tĩnh
đốc: tuy không chối sự hiện hữu của
trần tục, nhưng không chịu ra nữa,
không chịu vào đời nên
gọi là xuất thế. Còn Nho
thì nhập cuộc nên gọi
là xử thế: xử thế đi với An lự,
nó đến sau định tĩnh, nếu thiếu hai
bước định tĩnh mà vào đời
liền thì gọi là nhập thế,
như thế tục sống vật lộn với đời:
trôi theo đời Nho gọi là “lưu
tục”.
Đó
là đại khái nội dung
khóa trình Tự Chiêu
Minh Đức. Khóa trình
này chỉ quay ronéo chứ
không được in thành
sách nhưng tôi phải nhắc lại
ở đây vì nó
giúp cho sự nhận diện An vi cũng
như Vô vi. Sở dĩ không ra
sách vì tôi cảm thấy
phần công phu chưa tìm ra
khiến tôi phải mượn yoga hơi nhiều,
mà yoga nói chung thì
tuy tôi chấp nhận và
đã tập luyện, nhưng chưa muốn giới
thiệu vì với hành
pháp phiền toái cần
có vị linh hướng, mà phần
triết lý lại thiên lệch,
nên mặc dầu sinh viên
yêu cầu tôi vẫn không
cho xuất bản, là có ý
còn tìm thêm cho ra
pháp hành nào ứng hợp
hơn nữa. Thế là tôi tiếp tục
nghiên cứu hết Ấn đến Phật rồi Nho
và cuối cùng đến Việt mong
tìm ra một phép tu
đáp ứng được những đòi hỏi
của triết Việt, mà tôi cho
là đã có lúc
đạt được “Chí Trung Hòa”.
Nhờ
cuộc nghiên cứu kéo
dài nọ mà tôi gặt
hái được nhiều ơn ích về mặt
văn học cũng như thâm tín
thêm về con đường Định, Tĩnh, An, Lự
đích là con đường hợp
tình lý của dân tộc
cũng là nhân tộc như được ghi
lại cách tiềm ẩn trong Trống Đồng.
Và tuy có thất truyền,
có suy thoái nhưng vì
tất cả các môn phái
khác còn suy thoái
nhiều hơn nên trong nước mù
anh chột làm vua. Tin tưởng như thế
nên tôi đã khai quật
nhiên liệu kho tàng văn
hóa dân tộc và Nho
nguyên thuỷ để thiết lập ra nền
triết An vi hầu hướng dẫn đời sống tư
riêng của con người cũng như cho cả
nước. Tuy nhiên vẫn còn cảm
thấy thiếu một hành pháp cặn
kẽ, nên tôi vẫn cưu mang trong
lòng ý định tìm một
pháp hành nào
đó mà tôi cảm thấy
nó bàng bạc trong biết bao
huyền thoại, truyện tích, biểu hiệu
cũng như những lễ cổ xưa: nào Tế
Thiên, Nguyệt Lệnh, nào Tứ
Quý, nhà Minh Đường với Đạo
nội, Đạo tiên v.v... Tôi
tính sẽ trình bày
trong bộ Ngũ kinh Việt mang tên
là Kinh Hùng, Kinh Ước, Kinh
Ngữ, Kinh Nghĩ, Kinh Lạc. Mấy tên
kinh kia mới chỉ như cái ghế rỗng
để đón tôn sư, nhưng
tôn sư chưa xuất hiện nên chưa
dám viết thêm, thì may
thay đến giữa năm 1982 lúc
tôi vừa viết xong quyển cuối
cùng của triết lý An vi
thì bị một cơn bệnh rất nặng
kéo dài hai tháng
và do đó tôi gặp được
Pháp lý Vô vi
nên tôi cho là Trời
đã xếp đặt như thế để chước cho
tôi việc hiện thực bộ Ngũ kinh Việt.
Nay đã gặp Pháp lý
Vô vi mà tôi thấy
nó giống với Việt Đạo từ
nguyên lý đến cơ cấu
nên tôi chấp nhận và
nghĩ là nó có thể
thay cho dự định kia một cách
viên mãn ở chỗ gia tăng thực
chất cho tất cả các biểu tượng của
An vi.
II. Tổng
quát về thiền
1.
Mục đích và phương
pháp thiền
Mục
đích thiền là phát
triển hết cả khả thể tàng ẩn trong
con người để trở nên Người
toàn diện, nói khác
là đi đến chỗ hội nhập được cả
trong lẫn ngoài vào một thực
thể thống nhất, không để phần
nào mâu thuẫn nhau hay cả
ngổn ngang tản mác. Nói
thông thường thì thiền
là để đạt được một tư cách
mạnh, để hiện thực chân tính
đến độ tròn đầy viên
mãn mà Nho gọi là
thành hay thánh cũng vậy “thành
giả thánh dã”.
Thánh nhân chính
là người đã hiện thực được
đầy đủ nhân tính. Mà
nhân tính đích thực
thì cao cả vô cùng,
cho nên Nho nói thêm “chí
thành như thần” tức
dù cao cả như thần linh cũng
là một khả thể đã
tàng ẩn sẵn trong người, hễ biết
phát triển vun bồi thì sẽ
đạt.
Muốn
đạt phải dùng phương pháp
nào? Thưa là làm việc
cách tận tình, tận ý,
tận chí. Nho gọi là đốc
hành. Muốn có đốc
hành thì người ta
dùng phương pháp mà
Đạo học gọi là “thủ nhất”
= giữ riết cái một tức là
trong một lúc chỉ làm một
việc, dồn cả tâm hồn: ý,
tình, chí, cả thể xác
nữa vào có một việc
và chỉ một việc đó
thôi. Đang ăn thì chỉ nghĩ
đến ăn, đang hát thì chỉ
nghĩ đến hát, đang học thì
chỉ nghĩ đến học. Việc làm được như
vậy sẽ đưa đến hậu quả lớn bất ngờ
mà Nho gọi là như Thần. Ta
có thể lấy thí dụ nước
sông, suối đang chảy lan tràn
hỗn độn, có khi còn
gây lụt lội mất mùa... nhưng
nếu người ta đắp đập để quy tụ nước cho
chảy vào một điểm thì sức
mạnh sẽ tăng cả ngàn triệu lần đẩy
được máy sinh điện gây
nên sáng láng. Cũng
vậy, nếu biết quy tụ được trọn ý
tình chí vào một
việc, và chỉ một việc trong một
lúc, thì việc đó sẽ
đẩy rất sâu vào nội tâm
đến bờ đại dương của những khả thể tiềm ẩn
trong con người: đạt đến đợt thánh
đợt thần. Thiền là cốt để quy tụ
tình ý chí vào
một việc. Hiện nay quá ít
người có nhân cách
cao, ít hiền nhân quân
tử, ít thánh ít thần
là chỉ vì thiếu quy tụ tức
khi làm một việc thì
tâm trí để vào hai ba
việc, thành thử sinh lực bị tản
mát, không được đến chỗ
cùng cực để đạt chỗ như thần. Muốn
chữa trị bệnh tản mát, hay cả
mâu thuẫn thì đó
là thiền.
Như
vậy điều quan trọng để nên người lớn
không phải là đối tượng lớn
của việc, tức làm việc to hay việc
nhỏ không quan trọng, mà quan
trọng nằm chính trong cách
làm phải có lớn, có
làm được cách cùng kỳ
cực chăng. Tâm trí có
dồn trọn vào đó chăng, nếu
được thì sẽ đạt cao cả. Như vậy
khởi đầu thiền chỉ là việc thường
thường nhưng kết quả sẽ là
làm người đến cùng cực.
Nói mở rộng là sẽ hội nhập
được cả nội lẫn ngoại, hay cả thiên
cả địa cũng thế. Tâm linh sẽ
là Thượng Đế. Thiền sẽ trở
nên như một tôn giáo
cao siêu khi hiểu tôn
giáo là nối con người với
Thượng Đế. Tất cả bấy nhiêu điều cao
siêu lạ lùng cũng chỉ
là hậu quả của những việc
làm rất thông thường, nhưng
là tới chỗ cùng cực. Nho
nói: “quân tử vô sở
bất dụng kỳ cực”: “người quân
tử không làm gì
mà chẳng làm đến chỗ
cùng cực” là do lẽ
đó.
2.
Những thành tố của thiền
Để
đạt mục tiêu trên (đốc
hành) khoa tâm lý
đã mở đầu bằng phân
tích việc làm ra nhiều
thành tố đơn giản, thí dụ
chỉ nhìn một vật nào bất kỳ,
nhưng nhìn chăm chú,
không chia trí sang chuyện
khác, nhìn càng
lâu càng tốt. Khi đã
quen thì mới tập trung tâm
trí vào việc khác.
Thở cũng vậy, chỉ nghĩ đến thở, đến từng
hơi thở, nghĩ đến từng nhịp đi của hơi
thở. Đạo Lão gọi là “đạo
tức” mục đích chính
là nhằm huấn luyện tâm
trí bắt phải theo vào một
đường lối để có thể đi cùng
cực xa.
Thứ
đến để được hiệu nghiệm hơn khoa tâm
lý lại phân tích cả
tâm hồn con người thành từng
thành tố nhỏ, đó là
ý, tình, chí.
Các đạo pháp đã căn
cứ vào ba yếu tố này
mà thiết lập ra vô số thiền
nhưng quy tụ lại được ba loại theo ba
thành tố trên:
Ý:
con đường lý trí đi đến
cùng đi đến chỗ vượt qua lý
trí thì gọi là tuệ.
Trí tuệ cũng nói là
huệ, bên Ấn gọi con đường này
là minh triết thiền (Jaina
yoga).
Tình:
phát triển tình cho
ngày thêm thâm
sâu và mở rộng, để chấp nhận
và yêu thương tất cả mọi
người như Từ bên Phật, Bác
ái bên Thiên
Chúa giáo. Đường này
bên Ấn gọi là sùng mộ
thiền (bhakti yoga) nhằm tôn
kính mến yêu Thượng đế hay
một vị thánh nhân nào
đó.
Chí:
Nho nói rộng là “chỉ ư
chí thiện” gồm hai ý
niệm một là tìm ra
cái tốt nhất để theo, hai là
theo cái tốt đó cách
bền bỉ. Cả hai điều đó đều
khó cả. Cái khó thứ
nhất có thể quy về ý:
đó là việc của lý
trí. Cái khó thứ hai
là của riêng chí. Nho
gọi là Dũng. Làm một việc
gì lâu bền phải có đức
Dũng. Công việc nào cũng vậy
mới bắt đầu thì tương đối dễ
vì được nâng đỡ bởi sự hăng
say của bước đầu cũng như của sự mới lạ.
Nhưng sau khi nhiệt tình ban đầu hạ
xuống rồi mà còn kiên
trì được thì phải có
đức Dũng cách riêng.
Bên Ấn gọi là Karma Yoga =
tác động thiền hay hành
thiền.
Ngoài
ba mối trên bên Ấn còn
thêm một thành tố nữa
là thân xác gọi
là Hatha Yoga. Thí dụ việc
thở, việc thể dục, các lối
võ như võ Bảo Truyền, Nhu
đạo, Vô vi nam, cả đến các
việc thường ngày: kết hoa,
đánh kiếm, làm bếp,
quét nhà, gánh nước
đều có thể cho vào yoga.
Tóm lại bất cứ làm việc
nào mà để hết tâm
trí vào thì đều
có thể gọi là thiền.
Đó
là đại khái 4 thành
tố thiền. Nó là 4 mối thường
tình mà con người gặp ngay
trong đời sống theo lương tri thường
nghiệm cũng đã có bấy
nhiêu, nhưng khi hiện thực theo
thiền thì làm cho các
thành tố đó vượt lên
một độ trên:
Trí thêm Huệ
Tình thêm
Tính
Chí thêm Tâm
Nho
quy tất cả vào chữ Tâm
mà gọi tâm trí,
tâm tình, tâm
chí. Đó là nét
song trùng cơ bản. Muốn thiền
thành công hay bất cứ việc
gì muốn thành tựu thấu
đáo phải hiện thực được nét
song trùng cơ bản nọ, nghĩa
là trí không được duy
trí, duy ý, mà phải
mở sang huệ thành ra trí
huệ. Tình cũng không được duy
tình nhỏ bé mà phải
mở cho tình sang Tâm cao cả,
để yêu thương khắp loài
người, yêu mến cả Thượng Đế vô
hình vô tượng. Chí
cũng phải mở lên đến chỗ cao cả
thành Tâm chí. Nối hai
đàng nối vào nhau đó
là mục tiêu của thiền, của
tôn giáo, của triết
lý.
Tất
cả các đạo pháp đều
là theo một hay nhiều thành
tố vừa kể trên. Phần nhiều là
gồm cả 4, khác nhau chỗ nhấn. Nhấn
trên ý thì là
minh triết thiền đó là đường
triết lý Nho giáo gọi
là Minh thành. Nhấn
trên tình thì
là thiền sùng mộ, là
tôn giáo Nho gọi là
Thành minh... Do đó
có thiền phi tôn giáo
như Zen. Có thiền rất mực tôn
giáo. Nhưng tôn giáo
trong thiền chỉ còn là
cái tinh tuý của tôn
giáo là mến yêu để kết
hợp với Thượng Đế, chứ không
còn nghi lễ bái cúng,
là cốt để dễ thi hành khẩu
hiệu “trong một lúc chỉ làm
một việc” như trường hợp Pháp
lý Vô vi sẽ được nói
đến sau.
3.
Những trở ngại gặp trên đường
thiền.
Ta
đã bàn về mục đích
gần của thiền là trong một
lúc chỉ làm một việc.
Lý do dễ hiểu là một
lúc mà làm nhiều việc
hay tuy một việc nhưng phiền toái
thì khó đi tới cùng
cực, không “chỉ ư chí
thiện” được. Vậy mà việc
đó khó vô cùng:
bạn chỉ việc ngồi rất im rồi ngắm một vật
nào thí dụ cái
bút và chỉ ngắm có
cái bút, không nghĩ
gì khác, làm như vậy
trong 5 phút. Bạn sẽ ngạc
nhiên thấy tâm trí
mình thiếu kỷ luật lạ thường.
Nhà Phật nói “tâm
viên ý mã”
là muốn ví tâm với
vượn đu hết cành nọ đến cành
kia, và ý như ngựa bất kham
thích đi hết mọi nẻo, trừ nẻo đường
chủ muốn nó tới. Xem thế nếu
không trải qua một cuộc vun bồi
luyện tập có phương pháp
và bền chí thì
không thể nào trong một
lúc chỉ làm, chỉ nghĩ
có một việc được. Thiền lập ra cốt
để rèn luyện tâm trí
để có thể làm được việc nọ.
Nho gọi thiền là định tức định
tâm trí vào một việc
mà thôi.
Định được thí dụ 1 giờ gọi
là tiểu định.
Định được thí dụ 2 giờ
gọi là trung định.
Định được thí dụ 3 giờ
liền thì gọi là đại định.
Đến được trung định có
thể gọi là thành (full
humanhood)
Còn đại định là
chí thành thì như
thần.
Biết
được cấu trúc của thiền như
trên rồi thì ta có căn
cứ để biết đâu là những trở
ngại. Trở ngại là những gì
ngãng trở ta không thể định
được lâu, không thể trong một
lúc chỉ làm có một
việc.
Trở
ngại đầu tiên là xác
thân, phải sao cho được khoan
khoái để khỏi rấy loạn hay thiếu
sức đi với tâm chí.
Các lối hãm mình phạt
xác xưa thì nay đều bỏ hầu
hết, ngầm hiểu đó là một
ngãng trở chung. Phật chỉ đắc đạo
sau khi uống li sữa do một nữ sinh
dâng.
Ngoài
ra chính lúc thiền phải ngồi
kiểu nào để thân xác
không phản đối (bằng tê mỏi
thí dụ) lúc no quá
hay đói quá cũng trở ngại ở
chỗ làm chia trí ra.
Vì thế chỉ dùng có
chừng. Tương đối tốt hơn cả là
các lối ngồi kiết già,
bán già, xếp bằng... hay
kiểu nào hợp cho mình
có thể ngồi hằng giờ
mà xác thân
không bị khó chịu. Ta thấy
ngay cũng phải rèn luyện cả năm
chưa chắc đạt. Có điều đây
là trở ngại tương đối dễ vượt qua,
vì dễ thấy. Bây giờ ta sẽ đi
vào các trở ngại tế vi hơn:
Trước
hết là các hiện tượng như
khi nhắm mắt mà xem thấy
hình nọ, vật kia, các
màu sắc rực rỡ rồi cả xuất
vía, xuất hồn... những hiện tượng
này có thể xảy đến cho một
số người ít hay nhiều do tác
động đốc hành mà ra. Y như
khi ta tập võ có phương
pháp hẳn hòi thì
ít lâu sau sẽ có nhiều
biến chuyển trong mình: khoẻ mạnh,
mau lẹ, đi đứng cảm thấy người nhẹ
nhõm khác trước. Cũng vậy
đốc hành là việc luyện tập
cả ý, tình, chí,
nên có thể xảy ra những hiện
tượng khác thường (paranormal). Tuy
nhiên đâu là tà
đâu là chánh,
đâu là chủ quan ảo tưởng,
đâu là đích thực...
tất cả rất khó phân biệt. Nếu
phải để trí vào đấy
thì sẽ là một trở ngại cho
việc tu tiến. Vậy khi thấy những hiện
tượng nọ ta có thể mừng coi như
là hậu quả của sự tập luyện
đã tinh tiến khá của ta.
Và chỉ đến đó thôi
không nên quan trọng
hóa lấy đó làm
tiêu chuẩn định mức tiến cao thấp,
hoặc để tâm cầu ước, hay mừng rỡ
quá đà đến làm chia
trí ra không còn theo
đuổi được việc tinh tiến tu luyện nữa.
Trong Phật có truyện kể một vị
tì kheo đi đến sông
không đò, ông liền cởi
áo ra làm thuyền sang
sông. Về đến nhà Phật hỏi
đêm khuya không đò sao
về được? Thưa con giải áo ra
làm thuyền. Thế là bị đuổi
ra khỏi chùa. Đó là
ẩn dụ ngăn ngừa không cho
hành giả chú tâm
vào những điềm lạ. Không Tử
tránh điều đó mà
ông gọi là “sách
ẩn hành quái” kẻo
bán đồ nhi phế (nửa đường bỏ dở)
là vậy. Lịch sử có ghi những
“ông thánh” làm
phép lạ mà tâm
trí nhỏ nhen, cố chấp... là
vì đó (xem chẳng hạn
Practical Mysticism by Evelyn Underhill,
London J.M.Dent 1914).
Trở
lực thứ hai là đừng nói về
đạo ở tầm xa trình độ mình
như về thần tiên. Trước hết
nói về những truyện đó chỉ
là chuyện chơi bằng những tượng
ý (ý lấy từ sự vật hữu
hình) gọi là duy thức chứ
không có nội duy. Đã
vậy lại có nguy hiểm là coi
thường trần thế đến độ cho là
không có thực, mà
chính ra là nó thực
hơn hết, ít ra cũng thực bằng
thân xác và tâm
hồn ta nghĩa là đủ thực để
trì kéo hành giả
không tiến lên được.
Nói theo “chữ Thời” là phải
để hết tâm trí vào
hiện tại (ở đây và bây
giờ) có vậy mới đốc hành tức
trong một lúc chỉ làm một
việc. Nếu lúc này lại nhớ
đến những truyện đã qua hay nghĩ
tới cái chưa tới (tương lai)
thì làm sao mà đốc
hành. Đốc hành đòi
100% cả ý, tình, chí
nhưng đây đã để cho dĩ
vãng chiếm 20-30%, tương lai cũng
bằng ấy nữa. Thành ra đầu tư
vào hiện tại được có 50%
là nhiều. Làm sao đốc
hành, không đốc hành
làm sao đi tới thành tựu
là chí thành để
mà như thần. Vì thế
các bậc thầy đã nói
đi nhắc lại “đạo bất khả ngôn”.
Thế nhưng người ta lại nói nhiều về
đạo thì hầu hết là duy thức
tức là chơi tượng ý, chứ
không có thể nghiệm.
Vì một khi thể nghiệm sẽ thấy
cõi thần tiên vượt xa
ngôn ngữ hạn hẹp trần gian:
nói sao được. Vậy cần nói về
những điều ăn làm sinh sống thường
nhật (hiện tại) như đạo làm người.
Điều quan trọng là tư thế thường
tình thường nghiệm phải bước
lên được một bước. Bước lên
chỗ kế cận liền với chỗ mình đang
đứng. Thí dụ ta đang đứng ở đợt 1
thì bước sau chỉ là 2
không thể là 4, 5 được. Bước
lên 4, 5 là duy thức tức bỏ
hiện tại mà chạy rong trong mơ
mộng.
Ngãng
trở thứ ba là chống lý
trí: chủ trương này
phát xuất hoặc do người duy
trí đã một thời quá
thượng tôn lý trí sau
thấy lý trí bất lực liền
chối tuột giá trị của lý
trí; hoặc do những người khởi tu tự
tình cảm tức Thành minh hay
sùng mộ và thấy hăng say ơn
ích hơn đi đường lý
trí (Minh thành)
tránh được những suy luận rắc rối
thì quay ra lên án
lý trí cùng với triết
học đi kèm. Đây là trở
ngại lớn. Vì lý trí
là thành tố đầu tiên
phải tu luyện vun bồi: nếu không đặt
lên đầu như Nho: trí,
nhân, dũng, thì cũng
không bỏ được như trong “bi
trí dũng” của nhà Phật.
Không thể bỏ được vì
nó giữ vai trò chỉ hướng,
nó ví đựơc như người cầm
lái. Thiếu nó thuyền sẽ mất
hướng, hoặc đi trật, mở đường cho sự chấp
nhận các dị đoan. Lý
trí là cơ năng rất
quý trong con người, nó chỉ
đáng trách khi dùng
nguyên có nó gọi
là duy trí, nhưng nếu mở
vào huệ thì nó
là nền gọi là trí
tuệ.
Phải
kể vào việc chống lý
trí khi bỏ bê việc học hỏi,
so đo, phê bình, thiếu những
điều đó thì làm sao
chọn được con đường hợp cho trình
độ mình, làm sao biết những
gì là trở ngại mà
tránh, để khỏi rơi vào
bánh xe trước, động một tí
phải đi hỏi thầy, đó là ỷ
lại. Hỏi thầy hay tin vào thế
giá chỉ là bước đầu, đến sau
phải tự lập dần, tự mình quyết định
phải trái lấy, không được
kéo dài đường lối ỷ lại.
Kéo dài ỷ lại là
không tiến đúng cỡ,
không tu tiến về trí.
Đã
vậy ngày nay chống lý
trí trở nên nguy hiểm
vì tâm trạng con người đi tới
chỗ thượng tôn lý trí,
càng ngày càng gia
tăng số người chỉ chấp thuận đạo
pháp nào đó vì
những lý lẽ, những chứng minh hợp
lý hợp tình có thể
cứu xét, chứ không như xưa
chấp nhận vì tin lời người lập
pháp hay truyền pháp. Đi
theo lối tin đang dần dần trở nên
lỗi thời, đó là điều
đáng mừng tỏ ra con người có
tiến bộ về đàng trí,
nên cố giữ lối tin nhiều khi nguy
hiểm, vì đến một lúc
nào tự mình nhận thấy hay
có người chỉ tỏ cho thấy khiếm
khuyết của nhà lập pháp liền
bỏ pháp. Như đã xảy ra cho
Âu châu thế kỷ 18-19.
Thế
mà khoa học ngày nay
đã chứng minh rõ là
các vị sáng lập ra triết
lý, tôn giáo, đạo
pháp tuy là những bậc thượng
trí siêu việt nhất
loài người, nhưng hầu hết
các ngài đã
không thoát khỏi bầu
khí bái vật hoặc ma thuật
của đời mình, cũng như chưa bỏ được
óc lẫn lộn biểu tượng với sự thực,
thần thoại với khoa học. Cho nên
còn theo đạo pháp hay
tôn giáo vì tin
thì thế nào đến một sức tiến
hóa nào đó sẽ bỏ
pháp. Đấy là trở ngại. Nhưng
nếu đi theo lối lý trí: chấp
nhận đạo pháp vì thấy
nó hợp tình hợp lý,
thí dụ khi thấy tôn
giáo mình đương theo hoặc
thần tượng mình đang tôn thờ
biểu lộ khuyết điểm sẽ không bị
xúc động mạnh đến căm thù
người, phê bình, hoặc bỏ đạo
khi thấy đạo mình theo có
điều không đúng, vì
đã biết rằng khuyết điểm thuộc bản
tính loài người, bản
tính của tôn giáo.
Vì tất cả còn đang
trên đường tiến hóa, thiếu
khuyết điểm làm sao có tiến
hóa. Tu tiến là con đường
mê và phá mê bất
tận.
Đàng
khác con người nay được hưởng nhờ
một gia tài khổng lồ của các
thế hệ trước để lại gồm vô số điều
quý giá cũng như sai lầm.
Lên sổ những điều ấy là
làm khoa học, là vận dụng
lý trí và thu thập
và đối chiếu các kinh
nghiệm. Đó cũng là một lối
tu: tu lý trí, nó sẽ
giúp ta biết đích xác
hơn những bước phải tránh, những
điều phải cố theo. Chính nhờ thế
mà trong khắp thế giới hiện nay
đang nẩy lên rất nhiều cố gắng tu
luyện để đi lên tinh thần.
Nhà sử học trứ danh Toynbee
đã dám nói nhân
loại đang tiến đến một “tân
giáo hội hoàn vũ” (New
Universal Church). Đây là ơn
ích của khoa học, của lý
trí khi đi đúng đường, tức
trí mở lên được huệ
thành ra trí huệ.
4.
Định đề và luật tác
Định
đề là nền tảng của một nền triết.
Triết thành bởi những suy luận ra
từ định đề, nghĩa là mọi câu
nói, mọi kết luận đều được suy diễn
ra từ một số câu nói
không thể suy diễn. Đó gọi
là định đề vì giả thiết
là cao hơn hết ở chỗ nó
không bị suy diễn mà xuất
hiện ra như nền tảng mà mọi người
theo nền triết lý đó phải
tiên thiên chấp nhận,
nên tiếng Âu Tây gọi
định đề là tiền đề (prémise)
hiểu là câu nói được
đặt trước mọi sự suy luận để làm
nền móng. Triết nào cũng
có một số định đề thí dụ Nho
là âm dương, tam tài,
ngũ hành; là nhân,
trí, dũng. Đó là định
đề rồi quảng diễn thành ba
nguyên lý trong câu: “Đại
học chi đạo tại:
- Minh
minh đức (trí)
- Tại
thân dân (nhân)
- Tại
chỉ ư chí thiện (dũng)
Định
đề của Phật là bi, trí,
dũng. Cũng có ba thành tố
như Nho nhưng thứ tự khác nghĩa
là chỗ nhân khác nhau.
Phật nhấn trên tình. Nho nhấn
trên ý.
Ngoài
định đề và nguyên lý
thì còn một vài luật
tắc cần chú ý. Có
nhiều nhưng trong bài tổng
quát này xin chỉ nói
đến một luật đó là
“tìm phi thường trong những
cái thường thường”. Luật này
được suy diễn ra từ lương tri hay
công cảm (bon sens, common sense).
Cái gì hợp tình hợp
lý là đúng.
Nói khác cái
gì ở đâu và bao giờ
cũng được coi là quan trọng
thì nên lấy làm
tiêu chuẩn. Thí dụ
tình nước, tình nhà,
tình người ở đâu và
bao giờ cũng được quý trọng.
Nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín cũng vậy. Lâu lâu
một vài triết gia hay chủ trương
văn học muốn chối bỏ nhưng chỉ xuất hiện
như một sự lập dị. Tôn giáo
hay Thượng Đế cũng vậy, không
đâu không tin vào
Thượng Đế nên Thượng Đế cũng thuộc
lương tri công cảm, muốn chối đi chỉ
là lập dị, và cũng chỉ trong
từ ngữ, chứ trong thực tế sẽ phải trở lại
cách nọ hoặc cách kia như
thí dụ tam vô cộng sản:
nói là vô gia
đình, vô tổ quốc, vô
tôn giáo, mà thực tế
vẫn phải trở lại cả ba dưới hình
thức ngụy tạo nào đó.
Tóm
lại những gì đã có
mãi mãi, trường tồn với con
người thì ta gọi là lương
tri là công cảm. Và ta
coi đó như thuộc bản tính
con người, hoặc nói theo ngôn
từ tôn giáo thì
đó là ngọn đuốc Trời ban cho
con người để sống tạm, trong khi chờ đợi
phần đóng góp của con người
là tôn giáo, triết
lý, minh triết. Do vậy vừa phải
theo lương tri, phải lấy đó
làm tiêu chuẩn, vừa phải cố
vượt lương tri đến chỗ cao hơn. Nói
khác phải tìm phi thường
(cái cao) trong những cái
thường thường (bao giờ cũng có).
Việt Nho đã ngầm đặt phi thường
vào chữ Tâm và cho đi
với những cái thường thường
là trí, tình,
chí, thành ra những kiểu
nói song trùng là:
Tâm Trí
Tâm Tình
Tâm Chí
Trí,
tình, chí là thường
thường vẫn phải theo sát
nút. Nhưng theo để mà vượt
lên Tâm là cái
phi thường. Nói là phi
thường vì nói Tâm cho
gần gũi chứ tới cùng thì sẽ
thấy phi thường: Tâm sẽ là
Đại ngã Tâm linh, là
thần linh, là vũ trụ chi Tâm,
là vạn vật (vạn vật giai bị ư
kỷ) là vũ trụ... Nhưng
nói Tâm để theo sát
luật “đốc hành” chuyên
chú vào hiện tại.
Đó
là vài điều cần biết cả về
trở ngại, cả về định đề và luật tắc
là cốt để gạt bỏ những cái
gì gây ra việc nửa đường bỏ
cuộc (bán đồ nhi phế)
là điều trái với thiền. Nho
đã đưa ra công thức định,
tĩnh, an, lự. Phải sao cho tâm định
được, không nhảy từ cái nọ
sang cái kia như con vượn,
mà chỉ quy vào có
một. Định cũng bao hàm Định
Trí là một bước hàm
tàng triết lý đến độ Minh
Triết. Có được như vậy, cả Định
Tâm lẫn Định Trí, thì
mới hy vọng đạt được Tĩnh cả Tâm hồn
lẫn Tĩnh lý Trí để được An
Hành, mà đi mãi
mãi. Vì bản tính con
người là tiến hóa chẳng
cùng. Thế là với chương hai
lý trí ta đã đuợc
trang bị bằng một ít ý niệm
căn bản về thiền dùng được như dụng
cụ để đi vào khảo sát
Vô Vi.
III. Tiến
trình xuất hiện của vô vi
Tiến
trình nọ có thể chia ba
giai đoạn:
Giai
đoạn I là giai đoạn ông Tư
tức ông Đỗ Thuần Hậu (1887-1967).
Việc ông Tư đi tìm đạo cũng
có nhiều đợt. Đợt đầu học về Địa
Tiên biết được nhiều phép
màu, nhưng không được thỏa
mãn nên ông quay ra đi
tìm nơi các chùa
chiền, nhưng thấy hầu hết không
thoát khỏi vòng mê
tín dị đoan, nên ông bỏ
sang đợt ba là quay hẳn vào
thiền và học với thầy danh tiếng
lúc đó là Cao Minh
Thiền sư. Cuối cùng cũng
không vừa ý, ông trở về
nghiên cứu riêng. Nhờ
lòng mộ đạo chí thành
nên ơn trên đã chuyển
cho ông ngộ được Pháp
lý Vô vi (quãng 1945)
gồm có phép soi hồn
pháp luân thường chuyển
và định thần.
Đó
phải gọi là hồng ân của Cha
Trời ban vì ông không
học được ở thầy nào như phép
soi hồn không gặp thấy ở đâu
cả trong các phép tu trước,
nó ở tại chú ý tới bộ
đầu, cố ý mở bộ đầu trước hết,
đó là điểm đặc biệt
vì các môn thiền
khác thường chú ý tới
bộ ba ở huyệt đan điền, nơi có hỏa
hầu (kundalini). Chính sự
chú ý bộ đầu này giải
nghĩa tính cách hiệu nghiệm
mau lẹ về điển: chỉ tu chừng dăm ba
tháng đã thấy có điển
trên đầu (lâu mau tuỳ người).
Pháp
luân là phép thở cũng
đặc biệt ở chỗ hít vào phồng
bụng thở ra hóp bụng lại, lại được
chỉ rành rẽ bằng câu: “đầy
rốn, đầy ngực, tung lên bộ đầu” thế
là hút vào đầy bụng
đoạn thở ra liền cái cốt
tránh không để hơi xuống miền
hỏa hầu. Nhiều phép thở khác
thì hít vào thường
bóp bụng, nín hơi rất
lâu, thở ra lại phồng bụng. Sự cải
tổ trên khiến cho phép
Vô vi bỏ đi được tính
cách nguy hiểm, vì thế
mà được cho phổ truyền. Các
pháp xưa đã bí truyền
phần lớn là vì điểm
này, hoặc nhiều người thiền
mà không có thở, bỏ
uổng một pháp rất ơn ích cho
việc tu chứng.
Giai
đoạn hai của ông Tám (tức
ông Lương Sĩ Hằng sinh năm 1923).
Đây gọi được là giai đoạn
truyền pháp cũng có
vài cải đổi như về soi hồn,
ông Tư cho mở mắt và
nhìn vào đầu mũi. Ông
Tám nghiêm thấy làm
như vậy hồn không xuất lên
được cao, nên ông kêu
nhắm mắt và nhìn vào
điểm tam tinh (trung tâm chân
mày) quen gọi là huệ
nhãn.
Thứ
đến về pháp luân ông
nhấn mạnh hít vào đầy liền
thở ra ngay, không được nín
hơi để tránh cho hơi khỏi thấu
xuống đợt đan điền có thể gây
nguy hiểm như tẩu hỏa nhập ma. Yoga thường
nín hơi gấp bốn lần thở. Thí
dụ hít 2 giây, nín 8
giây, thở 4 giây.
Cũng
về phép thở ông nhận được một
lối cách mạng khiến cho Pháp
lý Vô vi thêm được một
nét đặc sắc nữa đó là
phép thở nằm gọi là
Pháp luân chiếu minh, do
bên trên chuyển cho ông
để giúp ông dễ thi
hành phép thở ra bóp
bụng, hít vào phình
bụng mà ông cố làm
mãi không được. Điều
khó khăn này dễ hiểu cho
những ai đã tập thở lối xưa
là thở phình bụng hít
lại hóp bụng, nay có
phép chiếu minh thì nhờ sự
nằm nên có thể chú
ý trọn vẹn vào việc thở
hóp hít phình, một
khi quen rồi thì làm
pháp luân thường chuyển
không còn khó.
Ngoài ra ông cũng đưa
vào một ít cải đổi
khác như thiền vào nửa
đêm, ngồi quay về hướng Nam,
chú ý đến đỉnh đầu nhiều
hơn.
Giai
đoạn III là ngôn văn
lý đạo hay là những lời
phân lý để giải nghĩa
rõ về Pháp lý
Vô vi như được trình
bày trong quyển Chân
Lý (1) gồm những lời giải
đáp được ơn linh hứng. Sách
cũng đưa ra ít điều cải thiện cho
hành pháp như việc niệm danh
Cha thay cho những lời niệm Phật rườm
rà lúc trước. Đó
là việc rất ơn ích nó
làm cho việc tu luyện được
thêm dung dị và nhất
là làm cho việc phổ truyền
đạo pháp trở nên dễ
dàng như chúng tôi sẽ
trở lại vấn đề này sau. Ở đây
chỉ nói đến mục tiêu
chính của quyển Kinh là
phân lý cho ta dễ hiểu tại
sao ta phải tu: lời giảng phân minh
mà phong phú, lý lẽ
xoắn xuýt nhau mà
quán triệt, đề tài đặc biệt
mà mới lạ... Tất cả làm tỏa
ra một vẻ siêu việt dị thường nhằm
hợp nhất loài người vào một
mối yêu thương. Quyển Kinh đã
cặn kẽ phân lý cho biết con
người bởi đâu mà ra, sẽ trở
lại nguồn cội nhờ có tu luyện, tất
cả đem lại cho Vô Vi một địa vị quốc
tế có khả năng được phổ biến khắp
nơi.
(1)
Viết tắt thay cho quyển “Thượng Đế Giảng
Chơn Lý” cũng gọi là Bửu
Kinh.
Ở hai
giai đoạn trước Vô Vi mới xuất hiện
như một pháp hành chưa hẳn
có “văn ngôn lý đạo”,
nhưng tới giai đoạn ba thì Vô
vi đã nghiễm nhiên xuất hiện
như một nền pháp lý ưu việt.
Cần phải đọc chính Kinh để thưởng
thức sự sâu xa phong phú
và nhất là cảm giác
sung sướng khi đọc một cuốn kinh
thâm sâu mà lại bằng
tiếng Việt trôi chảy không hề
mắc mứu vào những danh từ tiếng Ấn
đã xa lạ lại còn làm
cho kỳ dị lố bịch khi phiên âm
qua tiếng Trung Hoa. Ở đây lời lời
đều trực chỉ nói ra là hiểu
liền, khỏi cần phải giải nghĩa vòng
vo. Đây không thể đi
vào chi tiết chỉ xin trích
ra hai câu định nghĩa về hai thực
thể then chốt là Thượng Đế
và con người. Với hai định nghĩa
này ta đang bước sâu
vào phần lý thuyết rồi
đó.
Quan
niệm điện tử về Thượng Đế
Theo
Bửu Kinh thì Thượng Đế được định
nghĩa là “khối điển quang
vô cực vô biên, sinh
động mãnh liệt. Các cung
các cõi từ trược tới
thanh, từ nặng tới nhẹ, từ tối tới
sáng đều là những tần số
điển khác nhau của Người
đó thôi. Các cung
các cõi này được
duy trì nuôi nấng, sinh
hoạt nhờ nguồn điển lực cung cấp từ
trung tâm vũ trụ, có thể
nói ở đó phát xuất
sinh lực của càn khôn vậy”
(câu 59). Đó là một
định nghĩa về Thượng Đế vừa tuyệt vời vừa
đầy ứ tác động tính bao la
man mác như ẵm ôm, ấp ủ lấy
mọi người, mọi vật. Vì vật
nào người nào cũng được bao
quanh bởi bầu không khí
mênh mông. Nay thì ta
biết đó không là
không khí suông
mà trong đó hay chính
đó là chất Thượng Đế,
nói thông thường là
điển (1), khiến bất cứ lúc
nào nếu muốn thâu thêm
chất Thượng Đế vào trong
mình để kết hợp hòa đồng với
Người là ta có thể
làm liền và còn được
khuyến khích làm nhiều lần
nữa. Muốn vậy chỉ việc hút thật
nhiều và sâu là ta
đã vượt vòng ngoài
không khí để đi vào
vòng trong thanh điển.
(1)
Tiếng Bắc kêu là điện,
vì Kinh xuất hiện ở miền Nam
nên thiết nghĩ cần phải tôn
trọng lối phát âm trong Nam.
Cũng nói thế về vài chữ
khác như trược (trọc), huỳnh
đình (hoàng đình)...
Ta
biết tất cả những biểu lộ của sự sống
là do điển và được tạo
thành bởi những rung động vô
hình, như ánh sáng,
sự nóng, thanh âm, sự động...
đều là những tác động của
điển hết. Cho nên định nghĩa Thượng
Đế là khối điển quang hoặc linh
quang cũng thế đều là đưa ra một vũ
trụ quan động cùng cực, bao la man
mác hơn điển trần gian vô
cùng và nó sẽ
tránh cho ta cái nguy cơ hạn
chế Thượng Đế, khi đóng khung Người
vào một hình thái
nhất định nào thí dụ một con
người, một ông vua đều là hạn
cục. Thượng Đế không hạn hẹp như vậy
mà là khối linh quang
vô cùng tận, một khối điển
mãnh liệt vô biên với
ngàn triệu tần số cao thấp, bao
trùm vạn vật, vật nào cũng
được vây bọc bởi khối điển đó
tuỳ tần số thanh trọc khác nhau.
Đó
là một định nghĩa đem lại cho
Pháp lý Vô vi
tính cách khoa học thượng
thặng tức là khoa vật lý vi
thể, một ngành vật lý cao
nhất hiện nay. Nhờ có khoa
này ta mới cảm nhận được phần
nào giá trị của câu
định nghĩa Thượng Đế là khối điển
quang vô cực vô biên.
Vì khoa vật lý vi thể
đã phân tích vật chất
đến đợt cuối cùng có thể,
thì nhận ra sự vật chỉ là
hai luồng điện tử giằng co nhau. Ban đầu
khám phá tới nguyên tử
tưởng là đã hết, nhưng sau
lại nhận ra nguyên tử còn
là thực thể kép, bên
dưới còn có vi thể
(particles) cực nhỏ gọi là proton,
electron, nucleons... cực kỳ nhỏ
bé. Nhất là electron
còn nhỏ hơn nucleon nhẹ nhất 1840
lần, đến nỗi không thể thấy được
dù với kính hiển vi điện tử.
Chỉ bằng một hạt cát đã chứa
đến tỉ, tỉ, tỉ, tỉ vi thể (viết ra sẽ
là số 1 với 36 zéro theo
sau) nhưng sức mạnh thì ghê
hồn, chỉ một gram đã chứa đến
trên mười triệu kilowatt. Chỉ cần
bằng một hòn sỏi đã đủ sức
phá một thành lớn nhất...
Với những khám phá
điên đầu này, chúng ta
phải từ bỏ hẳn quan niệm sự vật là
bản thể đặc, im lìm, trái
lại tất cả vạn vật đều là điển,
và đang quay tít với độ
nhanh vượt trí tưởng tượng của
loài người. Lúc ấy ta mới
hiểu câu “thiên địa vạn
vật nhất thể” là gì.
Thể đó là điển, nó
gồm muôn vàn tần số với những
làn sóng dài vắn
thanh trược khác nhau, có
vô cùng đợt dài vắn
thì cũng có vô
cùng đợt thanh trược nối tiếp nhau
làm nên con đường tiến
hóa của con người, của vạn vật, của
chính Thượng Đế.
Đó
là định nghĩa tiến bộ hơn hết,
có sức thống nhất luôn cả vạn
vật và đầy hoạt lực tính.
Đem ghép nó vào với
phép soi hồn, pháp
luân, thiền định là ta
có một máy sinh điển rất
tinh vi. Muốn có điển lúc
nào là ta “xay” ra liền. Cho
nên Vô vi đáng gọi
là tu điển hoặc “điển quang
pháp giới” là vậy. Dưới con
mắt triết học thì tiến xa nhất
là Việt Nho với câu định
nghĩa Thượng Đế là “lý
thái cực, thái cực sinh
lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng...”
Các nhà khoa học đã
nhận ra rằng đó là một
“sáng thế ký” (cosmogony)
vắn gọn nhất mà cũng là
cái nhìn khoa học hơn hết.
Vì vậy với câu định nghĩa
trên Việt Nho vượt trên
các triết học khác với
sáng thế ký dài
thòng mà lại không
theo sát được khoa học. Nhưng đến
nay với câu định nghĩa của quyển
Chơn Lý thì Việt Nho phải
nhường ghế nhất. Vì tuy đã
nói lên được cơ cấu của điển
tức Thái cực sinh lưỡng nghi
thì lưỡng nghi kể được như
dây âm dây dương, nhưng
đời trước chưa biết điển nên
không nói lên được chữ
Điển, phải dùng tiếng trừu tượng
kiểu triết là khí
Thái cực. Tuy thua chữ điển nhưng
về cơ cấu thì giá trị vẫn
còn y nguyên và được
Bửu Kinh dùng hoài.
Hãy đọc câu sau: “Chơn
Lý (tức cũng là Thượng Đế)
là cái khối tròn
vô biên, đời đời xoay quanh
Nó, luôn luôn tự
nhìn Nó, tự sống với
Nó, tự học hỏi Nó, tự lo
tìm thấy biết Nó đời đời,
để đời đời không bao giờ Nó
tự đánh mất Nó” (Chơn
Lý cuối câu 61). Hãy
tạm ghi điều này là
có tới 5 chữ tự trong câu
trên để sau này sẽ phân
tích. Ở đây hãy
nói đến Thái Cực Viên
Đồ mà câu văn gợi lên
quá rõ để gửi vào
đó thêm ít chơn
lý căn bản.
Hình cơ cấu
thái cực viên đồ
Đó
là một khối tròn chia ra bảy
vòng ta hãy tạm gọi
là cung, mỗi cung có nhiều
ngăn, ta hãy tạm gọi là
cõi, thí dụ cung
ngoài cùng là 64
cõi, cung 6 có 32
cõi... càng cao trong
các cung càng nhỏ lại,
càng ít cõi hơn.
Vào đến cung 2 chỉ còn 2
cõi, rồi đến cung cuối cùng
không còn cõi
nào nữa, ta gọi đó là
“hư linh”, “vô thanh
vô xú”. Hình
ảnh này có thể giúp
cho ta tạm có vài ý
niệm về cuộc tiến hóa của con
người, về thời gian và các
cõi trên, cũng như về sự biến
động mau lẹ khác nhau ở các
cung các cõi. Thí dụ
đem hình thái cực trên
kia quay một vòng thì cung
ngoài cũng phải trải qua một
quãng đường dài thí
dụ một thước, đang khi cung gần trong
cùng chỉ trải qua có một
vài phân, cuối cùng
chẳng còn phân nào cả.
Điều đó cho ta một ý niệm về
thời gian trên cõi Bồng Lai
tiên cảnh rất vắn, chỉ một
vài ngày thì ở
cõi trần phải mất cả hàng
trăm hàng ngàn năm... Nhưng
trong quãng vài phân
mà cũng quay một vòng
thì sự di động trở nên cực kỳ
mau lẹ, mau lẹ đến biến mất nên trở
thành cực thanh cực tịnh. Do
đó ta biết càng quay về nội
tâm thì càng xa động
loạn, càng vượt thời gian
không gian càng trở nên
thanh tịnh, càng gần Chúa tể
Càn Khôn hơn. Nhờ vậy ta hiểu
được lý do tại sao lại có
phép định thần cũng gọi là
tâm pháp hay thiền.
Quan
niệm điện tử về con người
Bây
giờ xem đến con người là điểm then
chốt thứ hai sau Thượng Đế. Vậy con người
được Bửu Kinh định nghĩa là “tiểu
linh quang chiết ra từ Đại khối linh
quang để sai xuống thế đặng đóng
góp vào cuộc tiến
hóa của vũ trụ”. Nói
vậy có nghĩa là con người
cùng một bản tính như Thượng
Đế, cũng làm toàn bằng điển
như nơi khác ta đọc được: “Cho
nên khi hiểu ra, con người sẽ thấy
rằng: Nó thực sự chỉ là điển
quang được cấu tạo bằng điển âm
và điển dương”. Bản chất điển
là năng động, cho nên năng
động chính là bản chất con
người, y như di động là bản chất
của gió thế nào thì
năng động tính là bản chất
của người như vậy, ta không thể
bít gió trong hộp kín
vì làm thế là cắt mất
đi di động tính của gió tức
cũng là làm hết gió
luôn. Con người cũng vậy không
có năng động tính là
hết người. Không những động
mà còn động hơn nhiều y như
điển khí di động mãnh liệt
hơn gió vậy.
Từ
quan niệm con người là điển với bản
tính là tác năng ta
rút ra quan niệm tự tác
hành và tự tiến hóa.
Bởi vì cái gì
có bản tính là động
thì nó phải tự động.
Vì động là bản tính
của nó, nó không cần
nhờ cái chi bên ngoài
máy động cả, nếu do cái
gì ngoài máy động,
hay chỉ khơi động thì động
không còn là bản
tính nó nữa. Chính
vì thế mà triết lý An
vi luôn nhấn mạnh đến tính
cách tự động, tự tác.
Sách Trung Dung nói “tự
thành, tự đạo” (câu
25) là theo ý đó. Bốn
chữ này lấy từ câu 25: “thành
giả tự thành dã, nhi đạo
tự đạo dã”. Xin ghi nhớ sự
quan trọng của chữ tự này để hiểu
tại sao nói tu là tiến mạnh
nhất, cao nhất vì tu là
tác động giàu tự động
tính nhất (Vô vi quen
nói tự tu tự tiến
là chính đó). Tu
là một việc “người hơn hết”
vì cả tâm hôn lẫn thể
xác đều chú trọng vào
đấy mới trông làm được,
là bởi nó cực khó,
có thể nói là
khó vô cùng. Trước hết
nó đi ngược lại thói thường.
Thói thường khi tác động con
người vừa có đối tượng vừa
có động lực bên ngoài
thúc đẩy như là danh hoặc
lợi thuộc cõi hồng trần (lợi
hành) hoặc do sự ép buộc
(cưỡng hành). Đàng
này tu là khước từ đối
tượng, thay vào đó bằng
cái Không. May thay ta biết
được cái Không đó
đã là phần huyền linh của
Thượng Đế, nên là quan niệm
đầy an ủi.
Đó
là đại để khuôn mặt Vô
vi. Khởi đầu xuất hiện như một
ngành thiền sùng mộ bậc
trung, tức lấy Phật làm cùng
đích. Đến khi Kim Thân Cha
xuất hiện thì nâng lên
bậc nhất vì lấy Thượng Đế
làm cùng, đồng thời đưa Minh
Triết vào đặt cân bằng với
sùng mộ chuyển Vô vi từ
Thành Minh đi vào hướng Minh
Thành, làm cho Vô vi
đầy khả năng bước lên hàng
các lãnh đạo về đạo
pháp ở thời mới. Tôi
nói đầy khả năng là do sự
sắp xếp và hướng dẫn của Cha Trời,
nhưng còn phải thực hiện là
phần con người. Do lẽ đó mà
Cha Trời giao cho Tân Dân Nho
Giáo lo việc này là
vì Việt Nho đã đi theo con
đường tự Minh tới Thành tức từ
triết lý tới tu chứng
(thành) đang khi hầu hết các
đạo pháp đều đi theo lối tự
Thành tới Minh tức khởi đầu tu
chứng liền, biết đến sau và chỉ
là phụ thuộc.(1)
(1)
Mấy chữ này khởi sáng từ
câu 21 trong Trung Dung: “tự
thành minh vị chi tính, tự
minh thành vị chi giáo,
thành tắc minh hĩ, minh tắc
thành hĩ”. Tự Thành
tới Minh là tính (tức
tính tự nhiên, hiểu là
lương tri chứ lý trí con
người chưa có phần tham dự
vào). Tự Minh tới Thành
là giáo tức là
giáo hóa, học hành,
(tức lý trí con người
đã có tham dự vào
rồi), tôi gọi đó là
triết, triết mà tới minh thì
là Minh Triết tức có sự tham
dự của lý trí và
thành tựu. Còn duy lý
thì lý trí có
tham dự mà không thành
tựu.
Xét
về đường tu tiến thì như nhau, tức
cũng thành tựu trong việc tu tiến,
nhưng xét về đàng triết
lý thì trong lối tự
thành tới minh thì định
ít khi tới tĩnh, nên thường
phải có sự đặt lại nền tảng như
đã xảy đến cho hầu hết các
nền văn hóa đạo pháp. Đấy
là do sự khiếm khuyết ở thời xưa,
mà đến nay cần vượt qua. Xưa kia
triết học hầu hết là duy lý,
duy vật, không mấy giúp
vào việc tu, vì thế bị
các đạo pháp coi thường
và nhiều khi thải bỏ. Nhưng
làm thế là lầm: không
được thải bỏ triết, mà phải
giúp cho nó tiến đến Minh
Triết, tức là đưa trí đến
huệ thành ra trí huệ. Nếu
đạt được trí huệ, nói
khác khi triết học đạt Minh Triết
thì sẽ giúp vào việc
tu trì rất mực, tức giúp cho
việc định với tĩnh, để rồi có thể
an lự. Việt Nho đã đi lối
đó, tuy không trọn hảo, nhưng
xét về cơ cấu thì đã
đặt, vì thế nó đã sửa
sai được các đạo pháp tiếp
cận với nó, như sẽ được chứng minh
bằng lịch sử trong các chương sau.
IV. Cơ
cấu với vô vi
Về cơ cấu thì
những nhà sáng lập cơ cấu
nay như Levi Strauss đều công nhận
là có một cách nền
tảng nơi Nho, ta nói là nơi
Việt Nho có cơ cấu bao hàm
đối đáp như trong ngoài,
trên dưới, chẵn lẻ v.v... nên
cơ cấu cùng cực là tất
nhiên thành bởi số 2,
tôi gọi là nét song
trùng, nói theo nghĩa
bóng là “sông Tương
nước chảy hai dòng” tức phải
có 2 hạn từ mới làm ra được
mối Tương quan. Hai hạn từ đó
là bất cứ cái gì đều
nương nhau mà có (mà
tương) như trời đất, sáng tối, đực
cái, chẵn lẻ, chiêu mục (tức
tay chiêu tay mặt) hoặc trên
dưới, trong ngoài. Nền tảng chỉ
có vậy nhưng biến hóa
vô cùng như trong Kinh Dịch
(toán điện tử cũng phát xuất
từ nền móng nọ: một có một
không, một trên một dưới, một
chiêu một mục...).
Văn
hóa nào xuất hiện cũng
có cơ cấu cả, mà biểu lộ
rõ nhất là một ít con
số uyên nguyên. Nghiên
cứu về các con số gốc đó
có thể giúp ta biết được đại
khái khuôn mặt của một nền
văn hóa nhất định. Ở đây chỉ
xin nói tới kết quả của hơn ba mươi
năm tìm tòi tôi mới
nhận ra số nền tảng của Việt Nho là
“vài ba, tham lưỡng” hay
2-3 hoặc 3-2 nó sẽ là
chìa khóa mở tất cả những
kho tàng ẩn dấu như sẽ xem sau.
Số 2
(âm dương) tức muôn vật trong
trời đất đều thành bởi đối
đáp: sáng phải do tối, cao
phải do thấp, đất phải do trời, v.v...
Tóm lại, phải có hai mới
đích là có, vì
có biểu diễn bằng động, chữ nếu chỉ
có một là tĩnh chỉ. Triết
học duy lý theo nguyên
lý đồng nhất A=A: một là
một, không có vụ lưỡng
tính nhất. Vì thế mà
cơ cấu ở nền triết đó không
xuất hiện rõ nét như Việt
Nho, nơi này đã có số
2 lẫm liệt với các huyền thoại
có lưỡng nhất tính. Nhất
mà lưỡng nên cũng gọi
là lưỡng hợp (dual unit): hai
mà một. Đây là bộ số
nền tảng hơn cả và mở đầu để
có các số 3, 5 sau.
Số 3
(tam tài): Thiên, Địa,
Nhân tức là đạt nhân
chủ đó: vì nếu trời
là chủ, đất là chủ
thì người cũng là chủ, nhờ
là chủ tức phải mạnh mới hội nhập
hai thái cực lại được để
thành ba, ba Tài. Vậy
nên hễ khử trừ số 3 (tiers exclu:
triệt tam) thì không đạt
nhân chủ mà bị vật làm
chủ vì không đủ sức nối hai
thái cực lại. Nên rơi
vào duy nào đó: duy
tâm hay duy vật cũng một chiều cả
như nhau: đều là ‘chosisme’.
Hai
bộ số 2-3 hợp lại thành số 5 của
ngũ hành có giá trị
vượt bực. Bí quyết nọ nằm trong
hành thứ 5 (hành Thổ) đặc
biệt đến nỗi đứng riêng một tầng,
bốn hành kia ở tầng dưới (hiện
tượng) hoặc tầng có, còn
hành năm ở tầng trên, hay
là tầng không, tức vượt
không gian và thời gian.
Vì có bốn phương, bốn
mùa cho bốn hành kia, trật
lại hành ngũ không có
gì: nhưng Không ở đây
lại chính là “diệu hữu”
nên nói là “hư linh”.
Triết nào thiếu ngũ hành
thì duy vật từ trong bản chất,
thiếu sự “sang qua sông lớn” tức
là đi sang bờ Vô vi
đó. Vậy mà hầu hết văn
hóa loài người thiếu số 5.
Nói đúng hơn thì số 5
bất kỳ nào thì đâu
cũng có, nó cung cấp do
lương tri thường nghiệm mà
không do Minh Triết. Vì do
Minh Triết thì nó phải
là số 5 nền tảng cho rất nhiều định
nghĩa và lược đồ như Hà Đồ
Lạc Thư, Trống Đồng v.v... nếu xét
ngặt như vậy thì chỉ thấy trong
Việt Nho.
Ba bộ
số 2, 3, 5 này đã xuất hiện
từ buổi sơ nguyên của nền văn
hóa Việt rồi sau Nho công
thức hóa thành Kinh Dịch.
Kinh Dịch ban đầu không có
chữ mà chỉ có hai vạch đứt
(- -), liền (–) chồng lên nhau
thành quẻ ba vạch, rồi chồng nữa
thành quái 6 vạch,
sáu vạch nhưng chỉ là
dùng có năm vạch. Nói
vắn tắt Kinh Dịch ban sơ chỉ là bộ
số vài ba (2-3) tham lưỡng (3-2).
Về sau người ta mới thêm chữ
vào gọi là “hệ từ” nghĩa
là “chữ treo” tức là
cái gì tuỳ phụ treo
vào bộ cơ cấu 2, 3, 5 đã
có trước.
Từ
đấy theo với trào lưu suy
thoái chung của mọi thuyết
lý thì Kinh Dịch cũng sa đọa
thành sách bói
toán, bỏ mất phần đạo lý
sâu xa nằm trong số 2, 3, 5
và nằm tê liệt trong
các số 8 của 64 quẻ suốt hơn hai
ngàn năm, cho đến khi Việt Nho
phát giác ra bộ cơ cấu nọ
và thấy nó chính
là dấu chỉ sự tiến bước tột độ của
nền văn hóa Việt Nho. Bởi vì
cơ cấu là sự đúc kết đến
cùng cực tất cả tinh hoa của một
nền văn hóa rồi chỉ thị tinh hoa
đó bằng vài ba con số (gọi
là huyền số) với dăm ba tượng
hình, v.v... cốt để dẫn đến cửa
ngõ hành động, vì
muốn hành động nên nói
nhiều mà chỉ cần ít dấu hiệu
để trỏ phương hướng, vì thế
có những quyển Kinh chỉ dùng
có vài ba huyền số với dăm
ba tượng hình như những quyển Kinh
vô tự của Việt Nho (Kinh Dịch,
Sách Ước, Gậy Thần...)
1.
Sự quan trọng của vị trí trong cơ
cấu
Bây
giờ xét đến sự sắp đặt vị
trí. Vì sự sắp đặt
chính là linh hồn của cơ
cấu, nó ở tại xếp cái
gì trên cái gì
dưới, cái nào trước
cái nào sau, bên tả
bên hữu, v.v... Đây là
luật tối quan trọng của Chữ Thời,
nói kiểu thông thường
là : một việc mà muốn tốt
thì phải làm ở lúc
tốt và nơi tốt “The right thing in
the right place and the right time” nếu
không thì tốt cũng ra xấu,
đúng cũng ra sai. Xem thế sự sắp
đặt quan trọng chừng nào: biết bao
cái mới mẻ và công
hiệu hơn xưa mà nếu chỉ xét
về các bộ phận, các
thành phần cấu tạo thì
có thể thấy đã có
truớc, nhưng chỉ vì khác ở
lối xếp đặt mà hóa hay hoặc
dở. Cũng cùng là số 5 nhưng
kép bởi 4-1 thì khác
hẳn kép bởi 2-3.
Nho
đã nhấn mạnh điều đó trong
câu châm ngôn bao
quát (Trung Dung, câu 1): “Thiên
địa vị yên, vạn vật dục yên”,
“Trời đất có đặt đúng vị
thì vạn vật mới được nuôi
dưỡng”. Theo đó phải xếp trời
trên đất dưới thì dân
mới được ăn tức được hưởng bình
sản. Còn nếu xếp đất ở trên
trời ở dưới, tất dân sẽ đói
khổ. Dùng chữ ăn với đói (vạn
vật dục yên) là
có ý cụ thể hóa
câu nói mới nghe tưởng như xa
xôi không quan trọng mà
kỳ thực thiết thân vô
cùng, không những đến
thân mà cả tâm. Hễ duy
một bên là bên kia
không được “dục yên”.
Duy vật thì hồn không được
dục yên...
Sở dĩ
có sự tối quan trọng trong việc xếp
đặt này là vì như
đã nói trên: những bộ
số trong cơ cấu không chỉ là
con số đơn thuần mà là những
bộ số phản chiếu những bước tiến quyết
liệt đầu tiên của con người
trên nấc thang tiến hóa. Bước
quan trọng đó liên hệ tới
tương quan giữa Thần minh và Con
người y như đạo thở và thiền định
giúp con người độc lập trong
hành pháp thế nào
thì với lý trí cơ
cấu, đồ biểu và số độ cũng chơi vai
trò như vậy. Tức những hình
thái tròn vuông
và số độ cũng chơi vai trò
như vậy. Tức những hình thái
tròn vuông hoặc số chẵn (số
đất), số lẻ (số trời) là những thử
thách đầu tiên của lý
trí tìm đường cắt nghĩa vũ
trụ cách khoa học, không cần
đến các thần để chỉ huy từng việc
như trong giai đoạn toàn thần.
Thời
mà con người kể mình như
không, chỉ có thần minh
là tất cả, đến độ vật nào
cũng có thần hoặc là
chính thần: tự đống đá
cây cỏ, giếng ăn, cửa ngõ,
nhà bếp, đến các con
thú vật cái gì cũng
có một số thần coi giữ. Trong thế
giới toàn thần đó con người
chỉ còn là một vật yếu
hèn phải van xin tứ phương.
Đó là thời bái vật,
một tiếng chung để chỉ nhiều hình
thức tin tưởng từ vật tổ qua phong
nhiêu (thờ ‘phallus’ dương vật...)
cho tới ma thuật đủ thứ.
Hệ
quả của thời toàn thần bái
vật này là Thần chủ, mọi
quyền bính nằm trong tay thần minh,
con người bị đày đọa cùng
cực: nơi thì cả hàng trăm
trẻ con bị giết để làm đẹp
lòng thần, nơi khác giết
người lấy máu nuôi mặt trời.
Bên Ấn Độ thì Thần chủ đẻ ra
đẳng cấp (caste) chia người trong
xã hội theo niềm tin vào
thần Brahma: tuỳ sinh ra bởi miệng, tay,
bụng, chân mà được làm
tăng sĩ, tư bản hay nhà nông,
thợ thuyền. Còn nếu vô
phúc không sinh ra từ phần
nào của Brahma thì là
vô loài (paria), cực khổ hơn
nô lệ bên La Hy (cũng quan
niệm thần chủ), không được
nhìn vào mặt người tự do (4
loại trên). Muốn qua thành
phố phải đi vòng ra ngoài
thành: nếu lỡ bị đất trời bắt được
nghe trộm kinh Veda thì phải chịu
đổ chì sôi vào tai.
Phạm tội thì phải đền tội bằng tiền
của nộp cho tăng lữ... Chồng chết rồi vợ
phải lên giàn hỏa, để của cải
được sung vào quỹ các tăng.
Đó là hình thể
thái thậm biểu lộ sự chuyên
chế của thần quyền, là thứ
đã trùm lên khắp nơi
với những hình thái
khác nhau. Vì thế mà
con người phải chiến đấu để giũ bỏ những
gông cùm nọ.
Hậu
quả của cuộc chiến đấu nọ là tiến
sang giai đoạn hai là duy lý
duy ý nên tôi quen gọi
là ý hệ tức hệ thống
ý niệm, hoàn toàn duy
vật, chối bỏ thần minh nhiều hay ít
tuỳ mỗi nơi mỗi thời. Bởi vì
lý trí con người dần dần
phát triển mới nhận ra rằng con
người cũng có quyền năng nào
đó, ít ra trên
thân phận mình, còn
các thần thì phần nhiều lại
chẳng theo lý lẽ, luật pháp
nào cả: hầu hết đều có
tính bốc đồng và tàn
nhẫn, nhiều khi còn đủ các
nết xấu như con người, rõ nhất
là các thần khí tượng
như thần sấm, thần sét, thần
bão lụt, làm hại con người
vô kể, cúng tế rất
đàng hoàng rồi mà
nhiều thần còn đòi phải
có máu người mới chịu ăn
cho.
Ở
Trung Hoa ta thấy những việc như tế
Hà Bá phải dìm chết
những cô gái trinh để xuống
làm vợ thần, vậy mà nhiều
lần vẫn còn lụt chết trôi cả
hàng tổng... thành ra
lòng tin tưởng vào thần minh
dần dần bị lay động và con người
gia tăng việc nghĩ đến tự cứu gỡ
mình khỏi sự đàn áp
của thần minh. Thần chủ có thể chỉ
bằng vòng tròn (lấy từ sự
xếp đặt các ‘stonehang’ thời cự
thạch) và chỉ sự vô
biên như trời bao la hay số 3 (số
pi). Còn thời ý hệ
thì chỉ bằng hình
vuông, số 4, ám chỉ sự
công chính theo nghĩa
uyên nguyên là sự
chí công theo những luật lệ
thường hằng chứ không bốc đồng tuỳ
hứng, và rất chính trực
không thiên vị ai, coi mọi
người như nhau nên chỉ bằng 4
phương. Phương nào cũng cách
trung ương như nhau, như thấy trong chữ
Vạn chữ Vãn.
Trên
đây là nói về hai
hình thức thái thậm của hai
giai đoạn toàn thần (bái
vật) chỉ bằng vòng tròn,
và duy nhân (ý hệ) chỉ
bằng hình vuông. Trong thực
tế ít có toàn
tròn hay vuông, mà
thường gặp những hình thái
dung hòa. Vì toàn
thần cũng bao hàm một chân
lý căn bản rất cần thiết cho con
người, bởi nếu vô thần rồi cuối
cùng cũng là vô
nhân khốn khổ. Và lý
trí con người không thể chấp
nhận việc không có thần linh:
trời cao đất rộng bao la phải có
một sức gì toàn năng
vô đối làm chủ... Cho
nên hữu thần có cái
lý rất chính thực, nếu xảy
ra những điều không ổn như vụ
chuyên chế của thần quyền là
do sự quá trớn của quan niệm về
thần mà thôi. Trái lại
ý hệ duy nhân cũng có
cái lý của nó
là người phải được tự do tự chủ,
nhưng sai lầm chỉ vì chỗ quá
trớn là muốn độc lập ngoài
quyền thần minh.
Đến
đây ta nhận ra sự quan trọng của
việc Thái Hòa, nói
vắn tắt theo người là hòa
tình với lý, nói theo
vũ trụ quan là hòa đất với
trời, nói theo cơ cấu là
hòa tròn với vuông...
Chính sự ước lượng số độ của sự
Hòa trộn này làm
nên xương sống của các nền
văn hóa, cũng gọi là
chân trời hay môi sinh văn
hóa. Thế là với hai
hình tròn vuông ta nắm
được một thứ tiêu điểm khách
quan để đi vào rừng các nền
văn hóa đặng mà phân
loại, nhưng không thể đi vào
chi tiết mà chỉ có thể đặt
một cái nhìn cai quát
lên văn hóa của mấy khu vực
lớn. Theo đó có thể chia văn
hóa loài người làm ba
khu vực là duy tròn, duy
vuông và tròn
vuông hòa hợp.
Tròn
là Trời (toàn thần)
thì đại biểu có thể
là Ấn Độ với biểu hiệu rắn cắn
đuôi: chung nhi phục thuỷ. Đất
(vuông) không có phần
nào vào đó.
Các nhà nghiên cứu gọi
Ấn Độ là quê hương tôn
giáo, quê hương các
thần minh. Phật chối bỏ thần Brahma
và đề cao con người nên bị
đánh bật ra khỏi Ấn Độ.
Vuông
thì đại biểu có thể
là Âu Mỹ mà văn minh
đã kế tiếp văn hóa Lưỡng
Hà (Sumer-Babylon) nơi phát
minh ra nền tảng khoa học được đại biểu
bằng thiên văn với những định số
thường hằng. Chính nơi đây
thấy có những kiến trúc thờ
tự gọi là ziggurat hoàn
toàn vuông. Lối vuông
đó truyền sang Ai Cập, rồi La Hy...
Tuy đôi khi có tròn
pha vào như thang xoáy ốc
hay ‘coupole’, nhưng hoặc vì
ích dụng hay vì mỹ thuật chứ
không đứng vào làm
tiêu biểu trời tròn như thấy
rõ bên Việt Nho.
Việt
Nho nơi mà tròn vuông
hòa hợp như thấy trong bánh
dầy tròn bánh chưng
vuông, về sau Nho công thức
hóa thành câu “thiên
viên địa phương” và
kiến trúc đền tế thiên bằng
nền vuông, nhà mái
tròn, rồi đưa vào
cùng khắp như xe vua đi phải
là thùng vuông mui
tròn, nho sĩ phải đi giầy
vuông đội mũ tròn...
Tóm lại tròn vuông đi
với nhau một cách có chủ
đích, chứ không phải
là việc cầu âu nghĩa
là trúng trật phó cho
may rủi hay chỉ là do óc
thẩm mỹ định đoạt, mà do một sự suy
tư căn bổn để hòa hợp trời với đất,
nói bằng hình ảnh là
tròn với vuông, đó gọi
là Thái Hòa.
Thái
Hòa là khi hội nhập được cả
cái hay của hai thời là thần
minh (hình tròn) lẫn
lý trí con người hay khoa
học căn cứ trên luật thường hằng
(hình vuông) để làm
nên hình tròn
mà vuông, vuông
mà vẫn tròn. Nói cụ
thể là vuông khoa học
mà vẫn tròn tôn
giáo hay thần minh, và
đó là nền tảng nhân
chủ: con người vẫn giữ được tự do mặc dầu
nhận thần minh. Biểu thị điều đó
bằng hình tròn vuông
gọi là cơ cấu. Hiểu theo cơ cấu mới
thấy câu “thiên viên
địa phương” ghi một thành
tựu hi hữu trong văn hóa. Nhưng
người sau mất ý thức nên căn
cứ vào lối hiểu nghĩa đen: trời
là tròn, đất là
vuông mà chế nhạo.
Cũng
như người ta chế nhạo ngũ hành sắp
nói tới, vì Nho suy vi
nên người sau chỉ còn biết
đến ngũ hành kiểu ma thuật, hoặc
dùng để xếp loại sự vật chứ
không biết đến ngũ hành như
cơ cấu. Vì vậy ở đây
tôi thấy cần trình bày
lại ngũ hành về phương diện cơ cấu.
2.
Cơ cấu ngũ hành
Ngũ
hành cũng nói một truyện như
câu “thiên viên địa
phương” nhưng bằng cách
khác: một đàng bằng
hình tròn vuông
còn đây bằng số chẵn số lẻ,
số sinh số thành v.v... nó
vừa kiện chứng cho tượng hình, vừa
đào sâu thêm triết
lý Thái Hòa.
Vì thế ngũ hành là
một thành tựu đẹp nhất trong phạm
vi triết học Đông Tây kim cổ
không đâu có đến độ nọ,
và có thể nói
nghiên cứu văn hóa Việt Nho
mà chưa nắm được then ngũ
hành là chưa tới nơi...
Hai
câu này mới nghe qua tưởng
như tự đề cao cách lố bịch,
vì trong lịch sử văn minh
nhân loại ở đâu mà
chẳng có ngũ hành. Đó
là cảm tưởng đầu tiên, nhưng
khi xét kỹ mới thấy hầu hết chỉ
có “tứ tố” (four elements)
là nỗi nhất, ngoài ra cũng
có ngũ tố nhiều khi cả lục tố, thất
tố. Thí dụ thuyết Sankhya mà
Phật tiếp nhận thì nó giống
của Empedoche bên Hy Lạp, tức sau
nước, lửa, khí, đất thì
có thêm tố thứ 5 là
‘ether’ bao trùm cả tứ tố, nhưng
xét cho kỹ sẽ thấy nó
cùng bản chất với 4 tố kia,
nên số 5 vận chỉ là số 5
mà không là bộ số 5
kép bởi 2-3 như ở Việt Nho.
Vì thế số 5 không thắng được
số 4 và người ta tiếp tục
dùng tứ tố. Đó là một
bế tắc trong việc hòa tròn
với vuông mới nói trên,
ở đây huyền số lại kiện chứng điều
đo tức tứ tố là một thứ duy (isme):
duy vật hay duy tâm, duy nào
cũng là một chiều cả. Trái
lại bên Việt Nho không
là tứ tố mà là ngũ
hành. Nói hành
là nói đến tính
cách biến hóa của ba bộ số
2, 3, 5.
Số 2.
Có 2 mới có động, vì
động là đi từ 1 đến 2. Sự di động
này làm nên nét
hàm hồ nền tảng: có
mà không, không
mà có. Thiếu nó
là văn hóa trở nên bất
động như văn hóa nào căn cứ
trên số 1 tức nguyên lý
đồng nhất A=A. Việt Nho căn cứ trên
số 2 mà Kinh Dịch công thức
hóa thành câu “âm
dương tương thôi nhi sinh biến
hóa”. Luật biến hóa
là luật thường hằng, bất di bất
dịch. Thế là với số 2, ngũ
hành đã đáp ứng được
nhu cầu căn bản về luật thường hằng nhưng
thường hằng về biến hóa. Vì
tính chất biến hóa
này Việt không nói hai
mà nói vài, Nho
không nói nhị mà lại
nói lưỡng thành ra thuật ngữ
“vài ba tham lưỡng”. Kinh
Dịch nói “tham thiên
lưỡng địa nhi ỷ số” 3 trời 2 đất,
đó là những số cần phải dựa
vào (số căn bản).
Số 3.
Sau số 2 thì tới số 3, là số
nhân chủ. Sách Trung Dung gọi
là tam tài: Thiên,
Địa, Nhân đặt người ngang
cùng trời đất. Đó là
điều táo bạo nên học giả
J.Legge phê bình sách
Trung Dung cho là điên rồ.
Đó là ông căn cứ
trên nguyên lý triệt
tam (tiers exclus = middle excluded).
Còn Việt đề cao số 3 rất mực đến
nỗi phương ngôn gọi là Đạo
Ba:
Con
ơi cố giữ Đạo Ba,
Sau
dù có chết cũng là
thơm danh.
Danh
đây phải hiểu là danh con
người Nhân Chủ: tức làm chủ
cái tiểu vũ trụ của mình để
rồi hòa với Đại vũ trụ. Muốn vậy
phải có cái Tâm bao
trùm vũ trụ mà Kinh Dịch gọi
là “vũ trụ chi tâm”.
Nhờ đó mà tránh được
nạn vong thân thường xảy đến cho hầu
hết các nền thuyết lý.
Số 5.
Bây giờ đến số 5, tức thành
bởi 2 và 3, nó là số
tâm linh vì đặt nổi
hành thổ là hành hư
linh như sẽ nói sau. Bà Nữ
Oa được tiếng đã lập ra phép
linh phối (hierogamy) tức là
tác nhân cuộc phối hiệp
này, nên chuyện kể bà
nấu đá ngũ hành để vá
lại trời, tay cầm thập tự nhai tức thập tự
số 4 cánh bằng nhau +. Đó
chẳng qua là ngũ hành được
cơ cấu hóa. Ta hãy xem qua
cách xếp đặt trong cơ cấu đó
ra sao
Thuỷ 1 Đen
Kim Thổ
Mộc 4
5 3 Trắng
Vàng
Xanh
Hỏa
2 Đỏ
Kim số 4, màu trắng chọi
với Mộc, số 3, màu xanh.
Thủy số 1, màu đen, chọi
với Hỏa, số 2, màu đỏ.
Thổ ở giữa không có
đối kháng, số 5, màu
vàng. Vì không đối
kháng nên cũng có
tên là “hành
vô hành, địa vô địa”
do sự không có phương
riêng và nhất là
không có mùa
riêng, phải đi mượn mỗi mùa
một tuần làm vốn và gọi
là tứ quý. Tứ quý
liên hệ với nhà Minh Đường
và Nguyệt lệnh là thể chế
bồi đắp Tâm linh. Tất cả nói
lên sự quan trọng hóa ngũ
hành vì đặt căn bản
trên nó.
Nếu
ta vẽ ngũ hành thành thập tự
nhai kép thì được như
hình bên... gồm có 5
ô vuông. Rồi ta lấy 4 ô
vuông tách rời ra như
hình sau... thì ô giữa
không còn nữa, nên gọi
là “hành vô
hành, địa vô địa”
quá đúng. Vì chỗ
vô địa đó mà
hành Thổ nhiều lần bị coi là
bà con nghèo. Nhưng
chính nhờ chỗ vô địa
đó mà hành ngũ lại
là nền tảng cho tâm linh
và làm cho triết Việt Nho
trở nên ưu việt, nhờ thiết lập được
nền Thái Hòa: hòa
hiện tượng với siêu linh. Nền
Hòa này sẽ là một thứ
tiêu chuẩn chính xác
dùng được để đo lường giá
trị các nền triết. Triết đạt
thân nhiều hay ít là
tuỳ nó hợp với ba bước trong ngũ
hành đến đâu: số 2 là
bước đầu thuộc Vũ trụ quan động giữa
Có với Không, giữa thời gian
và siêu thời gian. Số 3 đưa
ra nền Nhân chủ để cứu gỡ con người
khỏi thời gian, khỏi ách thần
quyền. Số 5 tâm linh là duy
trì được siêu linh mà
vẫn tôn trọng thần linh, nhờ
đã hội nhập được Linh vào
mình. Tức nhờ ngũ hành triết
đã hiện thực được một cuộc
Thái Hòa giữa Trời với Đất.
Lợi cả cho người lẫn thần minh, nên
đó là tiêu chuẩn
hoàn bị: nó nêu ra
những vấn đề đích đáng
đúng thực là căn bản,
đúng thực là siêu
hình. Đặt được ba vấn đề trên
và thưa đúng sẽ là
một nền triết mở đầu cho bốn bước định,
tĩnh, an, lự. Nếu đạt ra ngoài ba
điểm trên dù có
nói đúng nhiều cũng chỉ
là những cái đúng
thường nghiệm, tức là những sự thực
thuộc lý trí lưng chừng, chứ
không phải triết, triết là
triệt, triệt cùng, triệt để: trải
qua hết bôn bước định tĩnh an lự để
đi êm trong tiến hóa
(evolution). Nếu không sẽ có
lúc phải đặt lại vấn đề liên
tiếp qua những cuộc cách mạng
(revolution) đầy đổ máu. Muốn tiến
hóa phải đặt ra những vấn đề căn
bản thụôc Vũ trụ, Nhân sinh
và Tâm linh như được biểu thị
trong ba số tiềm ẩn ở ngũ hành, tức
cả thời gian lẫn siêu thời gian, cả
hiện tượng lẫn siêu linh.
Đã
biết ngũ hành là tiêu
chuẩn chính xác như vậy rồi
bây giờ ta cũng dùng để
phân loại các văn hóa
như đã làm với hai
hình tròn vuông,
và ta sẽ thấy có thể
phân ra ba thứ văn hóa, một
là của Tây Bắc với số 4, một
của Ấn Độ với số 1, và một của
Đông Nam với số 2-3. Thế là
bằng số ta cũng thấy có sự
chênh lệch nghiêng hẳn về một
bên ở hai văn hóa số 1
và số 4, không giàn
hòa được đất với trời. Kết quả sẽ
là duy vật hoặc duy tâm.
Nói khác ngũ hành
là giàn hòa được tự
do con người với luật thường hằng của vũ
trụ mà bộ số 4 hay 1 không
làm được như đã không
giàn hòa được giữa
toàn thân với toàn
nhân: mãi cho tới Kierkergard
mà còn nói “con người
phải chọn mình chống lại
Thiên Chúa”. Nếu không
quyết liệt (hay quá trớn) đến như
vậy thì cũng chỉ là cưỡng
hòa một thứ ‘modus vivendi’ nghĩa
là tạm nhận có đạo
Chúa cho xong truyện chứ
không sống không hiện thực như
đạo dạy, chỉ coi đó là một
thể thức tạm dung nhau khi chưa thiết lập
được một chủ thuyết An hòa
có hệ thống và hoàn
bị đủ sức cứu con người khoải nạn
đàn áp chuyên chế của
thần quyền, mà đồng thời lại duy
trì lòng tôn
sùng kính trọng Thượng Đế
như ngũ hành đã làm
được.
Ngũ
hành thành bởi bộ số “vài
ba, tham lưỡng”. Số 2 là số
đất đã rút nhỏ lại cho đỡ
duy vật: từ 4 rút xuống 2,
còn gọi là vài để chỉ
sự biến hóa hầu gảy ra ngoài
vũ trụ quan cố định (fixisme). Số 3
Nhân chủ là nhờ con người
có nhân chủ tính mới
giữ được hai thái cực như trời cao
đất thấp. Nhờ đó người có
thể và phải giữ vai trò chủ
nhân ông trong tiểu
thiên địa của mình,
thì mới đáng lên bậc
là một Tài trong Tam
Tài. Trời là vua, đất
là vua, thì rồi người cũng
phải là vua. Phải như sách
Trung Dung (câu 10) nói “trung
lập nhi bất ỷ” là tự lực
không được ỷ lại vào
đâu. Số 5 là Tâm linh ở
tại việc đưa linh thiêng xưa kia vốn
ở ngoài con người để đem đặt cả
vào lòng mình gọi
là “thiên lý tại
nhân tâm”, biến con
người thành thần linh “homo homini
deus” người là thần linh cho người
(chống homo homini lupus: người là
chó sói cho người). Đem chữ
Lễ vốn dành riêng cho Thượng
Đế áp dụng vào cả con người
nữa: khi sống cũng như khi chết: sống
là hai lễ quan, hôn, chết
là hai lễ tang, tế gọi gọn
là lễ gia tiên. Thành
thử chọn Trời cũng là Con Người,
chọn Người cũng là chọn Trời. Bởi
thế bên Việt Nho không
có vấn đề hữu thần với vô
thần.
Được
như vậy là nhờ có cả hai
quan niệm về Trời: một là Thượng Đế
tức Chúa có ngôi vị,
hai là Thiên tức Chúa
vô ngôi vị, “vô
thanh vô xú” dễ
dàng thẩm thấu mọi nơi, mọi vật.
Đó là một thành
công nền tảng gọi là
Thái Hòa hay An Hòa.
Chính quan niệm này
giúp cho Việt Nho tránh được
những cuộc tranh đấu nền tảng giữa đạo với
đời, tôn giáo với khoa học,
bà với ông... thường xảy ra
nhất là trong các xã
hội quá thiên về số 4,
hình vuông hiện tượng khiến
cho triết học là cơ khí,
khô khan trừu tượng, không ăn
nhập vào đời vào đạo,
nên nếu không chống đối ra mặt
như vô thần với hữu thần thì
cũng chỉ đi được đến những giải
pháp tạm dung để mà sống
cách thực tế không hòa
không được, chứ trên phương
diện lý thuyết triết lý vẫn
chưa tìm ra nền tảng giàn
hòa, nói bóng
là chưa lồng được vuông
vào tròn, nên vẫn
còn đầy mâu thuẫn gây
nên tâm trạng lạc hồn:
tâm trí như bị chẻ đôi
(split personality) tin một đàng
làm một nẻo. Cái nguy nhất
của văn hóa Tây Âu
là đặt nền tảng luân
lý trên tôn
giáo, mà tôn
giáo nay lại hầu không được
chấp nhận nữa, nên luận lý
cũng lung lay luôn, thành ra
tâm hồn con người không biết
hướng đến bờ bến nào, con người cảm
thấy hụt hẫng, nói bóng
là cảm thấy không nhà
không cửa (homeless). Người trong
xã hội Việt Nho có thể
tránh được tai họa ấy là nhờ
có ngũ hành. Chẳng may trải
qua bao đời không còn ai nhận
ra giá trị của thuyết đó
nữa. May thay nay được Trời ban cho
Pháp lý Vô vi
là pháp làm sống lại
thuyết ngũ hành trên chiều
hướng sinh động.
3.
Ngũ hành với Vô vi
Sau
khi đã biết đại lược về cơ cấu rồi
bây giờ ta đi vào Vô vi
để xem Vô vi đứng ở chỗ nào
trong cơ cấu. Có hai phương diện
cần xét: một là bầu
khí hai là số độ.
Bầu
khí hay môi sinh tinh thần
là cái toàn thể của
một pháp, một đạo, muốn biết
Vô vi có hợp ngũ hành
chăng thì trước hết phải xét
cái bầu khí của nó,
nếu nó hợp với ngũ hành
thì khi xét tới phần số mới
chắc ăn, không sợ làm một
việc gán ghép, cưỡng
ép. Tinh thần của ngũ hành
là Thái Hòa tức
là hòa được đất với trời,
áp dụng vào người là
tình với lý, áp dụng
vào tôn giáo là
có nhận Thượng Đế mà con
người không mất tự do tự chủ như
đã nói trên. Lý
tưởng là hòa hợp được cả
hai. Vậy ta thấy Vô vi đã
hiện thực được lý tưởng nọ.
Trước
hết là Thượng Đế không những
được truy nhận mà tình
yêu thương Thượng Đế còn được
biểu lộ cách minh nhiên như
chưa từng xảy ra trong loài người
đó là hiện tượng Kim
Thân Cha được điển Thượng Đế chiếu
tới và xuất hiện như biểu tượng
đấng Cha – là cha mà mẹ
luôn – tức tràn ngập
tình yêu con người, một thứ
tình yêu thấu nhập đến tận
từng tế bào, từng hơi thở,
tràn ra vạn vật cho đến cả
loài cỏ cây, kim khí,
đến từng nguyên tử không một
hột nhỏ điện tử nào không
được ấp ủ trong mối tình man
mác của Cha Trời.
Đàng
khác đọc quyển Chơn Lý ta sẽ
thấy con người được đưa lên cao
cùng tột không thể cao hơn
được nữa, vậy mà vẫn không
cần chối Chúa, lại còn nhận
Chúa như Đấng Cha Lành. Quả
có sự hòa hợp cùng
tột bao gồm mọi hòa hợp khác
như giữa đạo với đời, tôn
giáo với triết lý v.v... Như
vậy là yên lòng về bầu
khí vô vi quả là bầu
khí Thái Hòa,
nên có thể yên
trí bàn về các số.
Hỏi
Vô vi có theo bộ số 2-3
chăng? Có chứ, coi tác động
soi hồn kia chả thấy 5 ngón tay giơ
lên 3, ngón bịt mắt, tai,
tinh, còn 2 ngón thả lỏng
là gì. Đó là
dấu chỉ tam bửu: tinh, khí, thần
và 2 mạch nhâm đốc.
Nhâm là mạch âm đi từ
vùng rốn lên đến môi
dưới, đốc là mạch dương khởi từ
thận xuyên qua xương sống,
vòng lên đầu rồi qua
trán, mũi tới môi trên,
nay ngậm miệng răng kề răng là
có ý cho hai mạch đó
thông giao với nhau đặng cho hai
luồng điện âm dương nối kết.
Đó quả là một cách
hiện thực ngũ hành vào
thân tâm vậy. Về số 3
trên là tinh, khí,
thần thì cũng như tam tài
thiên, địa, nhân. Địa
là tinh, Nhân là
khí, Thiên là thần, cả
ba tụ nơi tam tinh (trung tâm giữa
hai lông mày) Nho gia gọi
đó là “tam gia tương
kiến” ba nhà xem thấy nhau.
Đạo giáo căn cứ vào
đó lập ra Đan Đạo là
phép luyện thuốc trường sinh: gọi
huyệt tam tinh là “lò lửa
của lư hương” được biểu thị bằng những
bình đèn hoặc cái
đỉnh tất cả đều có 3 chân 2
tai. Những cái đó đều
là biểu tượng để đốc ra dị đoan
hướng ra ngoài như vụ Cát
Hồng Tiên Ông đòi xuống
tận Việt Nam để lập lò luyện thuốc
kim đan, mà không ngờ rằng
lò ấy ở ngay trong mình. Sự
không ngờ đó gọi là
vong thân cầu ngoại. Vô vi
đã tránh được điều đó
bằng đặt số 3 vào tinh, khí,
thần đem khí (chí
khí) để luyện tinh cho ra thần.
Luyện bằng cách nào? Thưa
bằng cách soi hồn. Thiệt là
cụ thể cùng cực không thể đọa
ra dị đoan kiểu luyện thuốc trường sinh
hay kim đan được nữa. Luyện đây
là luyện cho điển trược trở
nên điển thanh gọi là khử
trược lưu thanh. Khử trược là khử
trân cấu: phải bịt lỗ tai để từ
khước thính, bịt mắt để từ sắc, bịt
màng tang để hướng dẫn tinh, bắt
tất cả phải đi vào “lư hương” của
tam tinh để phanh luyện cho hết chất hữu
vi trần trược. Vì thế lúc tu
không được xem, nghe, nghĩ đến hữu
vi mà phải đi vào cõi
thanh của Vô vi để đạt đợt “vô
thanh vô xú”...
Soi
hồn xong thì đến Pháp
luân thường chuyển, nói theo
cơ cấu là sau 3 thì đến 2, 2
đây là hít vào
thở ra, hít khí thanh của
trời đất vào rồi thở khí
trược của thân xác ra, như
vậy là tiếp tế điển thanh cho hồn.
Nhờ răng kề răng nên hai mạch
nhâm đốc nối liền chuyên chở
khí thanh đi khắp nơi để lọc rửa
ngũ tạng cho khỏi trược khí, để
rước thanh điển vào. Khi thở cũng
ngầm có số 3 ở trong: 1 là
hít vào đầy rốn, 2 là
đầy ngực, 3 là tung lên bộ
đầu. Đó là ngầm hiện thực
ngũ hành. Phương ngôn tu
trì quen nói “ngũ
khí triều nguyên, tam
huê tụ đỉnh” là chỉ về
đó.
Đến
việc thiền định thì quả là
quy vào trung cung hành Thổ.
Hai chữ định thần ghép lại
thành ra thiền, nói thiền
hay nói định cũng như nhau. Khi
nhà Phật nói “giới, định,
huệ” thì định ở đây có
nghĩa là thiền, cả hai chữ
có nghĩa là tập trung
tâm trí đến cùng cực.
Đó là bí quyết
thành tựu của các
thiên tài.
Tại
sao vậy? Trong quyển Sứ Điệp tôi
đã phân tích và
trình bày ý nghĩa của
vòng đồng tâm trên mặt
Trống Đồng mà tôi gọi
là luật “Chí Trung
Hòa”. Đó là luật của
phẩm, nó ở tại hướng tiến ngược
chiều với lượng: ở lượng càng to
càng tốt, ngược lại ở phẩm, ở thần
thì càng nhỏ càng
hay, nhỏ đến cùng cực không
còn thấy chi nữa thì
quý vô cùng, vì
đây là đạt chân
không mà “chân
không thì sẽ có diệu
hữu”. Do lẽ đó sau khi đã
hít vào nhiều điển thanh rồi
thì phải ép điển đó
lại như gói giò, ép
sao cho bé không còn
bé được nữa mới thôi.
Ép đây là thiền.
Vì thế lúc thiền tất
nhiên phải bỏ hết thế sự bên
ngoài để quay vào trong:
không cho một ý nghĩ hay cả
âm thanh sắc tướng lọt vào,
cố riết cho đến độ trống trơn không
còn động loạn trong tâm
trí thì mới đạt cái
“hư tâm” cũng gọi là “hư
linh”. Hư là trống không
nhưng lại linh vô cùng,
thành công nhiều hay
ít là tuỳ tập trung tư tưởng
được nhiều hay ít. Đó
là điều rất khó. Tâm
viên ý mã là
vậy.
Ai
đã thử mới biết, chỉ mới định độ 15
phút đã thấy chia trí
đến cả trăm lần, ngã lòng
quá hễ nghĩ đến giờ thiên
là run cả người lên. Nhưng
may thay đây là chỗ lợi hại
của Vô vi vì tập không
bao lâu bạn đã thấy
chút hiệu quả có thể sờ ngay
thấy. Thí dụ vài tuần
đã thấy sức khỏe cải thiện, tu
vài tháng thì thấy
tê tê trên đỉnh đầu,
lâu lâu như có ai giật
tóc, đó là điển giật
đấy. Lâu lâu lại thấy được mấy
hạt điển sáng lóa, người xưa
gọi là hà sa, nó bay
lơ lửng một chút rồi biến mất để
lại xuất hiện nữa. Thế là
hành giả được khuyến khích
rất mực, nhiều người còn mong tới
giờ thiền nữa, chân cũng bớt
tê đi trông thấy. Thế
là cứ vậy mà tiến. Đó
quả là hiện thực thể chế nhà
Minh Đường đặt căn để trên ngũ
hành để phanh luyện chất siêu
linh trong con người vậy.
Tóm
lại Vô vi đã áp dụng
ngũ hành cách trọn vẹn
không những về bộ số mà
còn cả vị trí các số:
tròn trên vuông dưới,
như bánh dầy đặt trên
bánh chưng bằng cách đặc
biệt là chú ý trước
hết tới bộ đầu, mở bộ đầu bằng phép
soi hồn. Đây quả là một cuộc
cách mạng khác lạ nhưng vẫn
hợp tinh thần Việt Nho khiến suy tới
đó tôi bất giác reo
lên một lời mừng:
“A
ha! Mẹ tôi bắt chạch đàng
đầu,
Người
ta tham giàu bắt chạch
đàng đuôi.”
Câu
“đầu xuôi đuôi lọt” ở
đây mang ý nghĩa thâm
sâu cả về pháp tu luyện
nói lên đường lối đặc biệt
của đạo Việt chú ý đến bộ
đầu như sẽ nói sau. Nay được
Vô vi hiện thực cách bất ngờ
và thú vị với phép
soi hồn, nhờ vậy mà đuôi lọt
là thể hiện được dễ dàng
tinh thần Việt Nho là tự cường tự
lực.
Vô
vi đã hiện thực điều đó đến
cao độ biểu lộ bằng cách
không chấp nhận một thứ trung gian
nào: không Phật, không
Pháp và nhất là
không Tăng, không cả tổ chức,
không chùa chiền, miếu mạo
tức là cất hết mọi đầu mối
có thể đàn áp con
người.
Điều
làm tôi quý trọng
Vô vi là tinh thần nhân
chủ cao độ nọ, cao đến độ không để
ai có thể lợi dụng, có tổ
chức đâu mà lợi dụng. Thượng
Đế xuất hiện trong Vô vi như chữ
Thái Hòa hiện thân:
vừa Hữu vi nhưng vẫn Vô vi tức tuy
có cái biết của tiểu
ngã mà vẫn có
cái biết của Đại ngã
và Vô ngã nên
vẫn có luật tắc thường hằng
không ai hay vật nào
thoát khỏi: đó là
luật tiến hóa được đề cao như linh
hồn của tất cả. Nói kiểu
khác luật tiến hóa là
một sự thiết yếu không vật
nào trên trời dưới đất
thoát khỏi, vậy mà vẫn
giàn hòa được với tự do con
người: con người theo Vô vi
đã không bị đàn
áp như nói trên
(không bị vong thân vì
thần) mà còn được đưa
lên bậc nhân chủ cao nhất
không thể cao hơn được nữa vì
được tuyên dương là
ánh linh quang của Thượng Đế. Thật
cao cả huyền diệu y như Việt Nho là
tinh thần Thái Hòa trong tam
tài: Thiên Địa Nhân.
Đó là hậu quả tận
cùng của Ngũ hành: cộng 2
với 3 thành 5 nghĩa là khi
Trời (số 3) hợp với Đất (số 2) thì
con người Tâm linh (số 5) sẽ được
tôn trọng. Vô vi đã
hiện thực đúng điều đó.(1)
(1)
Bài thơ sau đúng tinh thần
Vô vi rất đáng được nhiều
người thưởng thức, xin ghi lại đây:
CHÙA VÔ VI
Chùa
tôi, không cột, không
kèo.
Không
lợp mái ngói, không
treo chuông đồng.
Bên
trong đèn nến cũng không,
Không
hoa, không quả, cũng không
ông thầy.
Tụng
kinh “không chữ” mới hay,
Không
tô tượng Phật, không
xây bồ đoàn.
Cũng
không có mái tam
quan,
Không
treo bảo cái, tràng phan,
Phật kỳ.
Không
xây ngọn tháp uy nghi.
Không
chuông, không mõ, vậy
thì chùa đâu?
Chùa
ngay trên chính đỉnh đầu,
Chùa
trong tâm thức nhiệm màu
đâu xa.
Chùa
trong thường niệm danh Cha (a)
Chùa
trong trí huệ, sáng
lòa đi lên.
Noi
gương chư Phật, Thánh,
Tiên,
Cô
công tu luyện, quy nguyên
cội nguồn.
19/11/1982
Diệu
Nhung
(a) Chính bản văn
là “Chùa trong lục tự Di
Đà”, xin được sửa lại như
trên.
V. Lốt
chân đạo nội
1.
Những ấn tích lâu đời nhất
của Đạo Nội
Đạo
Nội nói ở đây chính
là Việt Đạo, cũng có thể gọi
là đạo Tiên Rồng, đạo Trống,
đạo tu Tiên... đây có
thể là phần tâm truyền, hay
phần nội, còn phần ngoại hay phổ
truyền là đạo gia tiên, đạo
thờ quốc tổ và lễ tế thiên
địa. Cả hai phần nội cũng như ngoại đều
có chung một số điển chương
và huyền tích như Lạc Thư
có thể gọi là Thánh
Kinh của Việt Đạo. Tiếp tới là
truyền thuyết hay là bộ nhân
thoại trong Kinh Hùng. Rồi tới điển
chương là Trống Đồng Ngọc Lữ, cũng
như huyền số là “vài ba”
biến ra ngũ hành rồi Cửu lạc v.v...
Tuy nhiên vì Đạo đã
thất truyền nên những điển chương
vừa nhắc đến không nói
lên được cái nội dung của một
đạo pháp, mà chỉ còn
là những ấn tích lu mờ,
vì thế bao thế kỷ qua Việt Nam vẫn
bị coi như không có tôn
giáo hay đạo pháp
nào, kỳ thực thì ngay tự
ngày khai quốc Việt tộc đã
có một đạo pháp siêu
đẳng đến nỗi nói Việt Đạo
không còn nghĩa là đạo
của Việt tộc cho bằng là đạo
pháp siêu việt.
Sau
hơn ba mươi năm nghiên cứu văn
hóa Việt chúng tôi
nghĩ đã khám phá ra
phần ngoại vương của đạo đó
mà tôi gọi là triết
lý An vi. Đến nay gặp thêm
Pháp lý Vô vi
thì tôi tin nó phản
chiếu đúng cái phần nội
thánh của Việt Đạo, bởi vì
Vô vi chiếu ánh sáng
cụ thể vào các biểu tượng
và huyền số của Việt Đạo làm
cho dễ nhận ra những ấn tích
đó chính là lốt
chân của Đạo Nội. Đây quả
là một sự nhận diện đầy hứng khởi,
xin được trình bày
tóm lược trong bài
này.
Chương
trên đã cho thấy Pháp
lý Vô vi đi theo bộ cơ cấu
vài ba tức ngũ hành, vậy ở
đây ta hãy tìm xem bộ
số đó xuất hiện từ lúc
nào, vì nó là
biểu hiệu chỉ trỏ sự hiện thực của một đạo
pháp ưu việt, nó ghi lại
những bước tiến vĩ đại của con người
trên đường tiến hóa,
nên nói về sự xuất hiện của
nó cũng là nói về Đạo
Nội, nói về triết lý An vi
và Việt Nho, cả ba đều lấy bộ số
2-3 làm nền tảng. Hiểu được bộ số
đó là nắm được then chốt của
An vi, của Việt Nho cũng như của Đạo Nội.
Con
số 2 (vài, lưỡng) nói
lên vũ trụ quan động, văn hóa
nào không có nó
tất bị sa vào sự bất động im
lìm. Vậy bộ số này người ta
đã thấy dấu vết mãi từ đời
đá mới Bắc Sơn trong hai vạch song
song tạc trên các hòn
sỏi được mài nhẵn. Vì
môi sinh tinh thần của nó
là lưỡng hợp tính
(dual-unit) mà các
nhà khảo cổ gọi là
nét đặc trưng của Đông Nam
Á, bởi các truyền thuyết
trong vùng đều mang tính
chất lưỡng nhất như Tiên Rồng,
bà Nữ Oa ông Tứ tượng...
nên ta có thể gán cho
hai vạch đó vai trò biểu thị
số 2 nền tảng này và xin ghi
lại ấn tích này bằng
hình 2 chim và 2 rắn (nhất
điểu nhì xà) chỉ tiên
rồng, tìm thấy trên Muờng
hoặc hai giao long đang vờn nhau
tìm thấy ở Đông Sơn.
Số 3
là bộ số của con người, số
nhân chủ mà huyền thoại mở
đầu cách chói chang
là truyện ông Bàn Cổ,
nói lên nét tự cường
tự lực hết cỡ, đến nỗi ngay sự xuất hiện
cũng tự mình trọn vẹn. Hai việc lớn
hơn hết của ông là phân
ra âm dương (số 2) và tiến
hóa (số 3): sách nói
một ngày ông biến đổi 9 lần
(3*3=9). Khi ông khóc hai
hàng nước mắt chảy ra làm
nên hai dòng sông
Hoàng Hà và Dương Tử;
hơi ông thành ra gió.
Cái nhìn của ông
làm ra sấm chớp. Khi ông chết
xác rữ ra làm thành
năm (số 5) dãy núi trong
thiên hạ... Đó là lối
kể của huyền thoại để nói lên
con người là tiểu vũ trụ rồi sẽ
tiến hóa đến chỗ trở nên “vũ
trụ chi tâm”, v.v... tức
là nói lên tính
cách nhân chủ triệt
cùng, nên tôi gọi những
huyền thoại này là
nhân thoại tức vai chủ động
là con người (thần thoại thì
thần làm chủ). 15 truyện trong Kinh
Hùng đều là nhân thoại
vì các nhân vật
chính trong đó đều
làm những chuyện có tầm
vóc vũ trụ như truyện bánh
dầy bánh chưng là nối trời
với đất. Con số 3 này xuất hiện
trong các hình tam
giác mà ta gặp thấy lu
bù trên mặt trống đồng
và bình động hoặc gốm
có 3 chân.
Số 5
là ngũ hành thì phải
hiểu là bộ số cơ cấu, tức là
kép bởi 2 và 3, nói
nôm na là “vài ba”,
chữ Kinh Dịch là “tham lưỡng”.
Tự trước tới nay người ta cứ tưởng ngũ
hành là của Tàu
và có đã từ lâu
đời lắm. Nhưng gần đây cổ sử
và khoa khảo cổ khám
phá ra rằng ngũ hành mới
xuất hiền bên Tàu vào
đời Chiến Quốc ở nước Yên và
Tề vào quãng 350-270 tr.c.n.
Vai trò nổi nhất phải quy cho
Châu Diễn với thuyết Ngũ đế đức.
Người ta cũng gặp ngũ hành trong
vài ba sách cổ khác
như Kinh Thư, nhưng hầu hết học giả
ngày nay cho phần đó mới
được giặm vào sau vì thế
không thay đổi được niềm tin rằng
ngũ hành mới có tự
quãng thế kỷ thứ IV tr.c.n. Nhưng
có một điều cần lưu ý
là khi ngũ hành xuất hiện
trong sách vở thì nó
đã thấy được phổ biến sâu
rộng trong dân chúng với thứ
tự quen thuộc là kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ, chứ không phải thuỷ, hỏa,
mộc, kim, thổ có sau và
là của của bác học (của Kinh
Thư). Ông Needham gọi thứ tự
trên kia là của dân
chúng là “mới” thì
sai, phải gọi là “cổ” mới
đúng vì nó có
lâu trước.
Lâu
trước tới đâu thì không
biết, nhưng khảo cổ có cho ta những
ấn tích ít ra ba mươi thế kỷ
trước công nguyên như thấy
trong vụ 5 hòn sỏi tìm được
trong một ngôi mộ ở Phùng
Nguyên thấy 2 hòn thô,
3 hòn mài nhẵn. Di chỉ Long
Sơn ở Bắc Tàu có cái
lịch thời danh với 3 chân rồng
và 2 tai, lại còn các
bình đèn tìm thấy
Đông Sơn cũng có 3 chân
2 tai. Ta biết rõ 2 tai chỉ
là biểu tượng vì có
cả trong những đồ nhỏ như cái giả
không cần tai để xách, hoặc
to như cái đỉnh thì 2 tai
cũng chẳng dùng vào việc
mang xách được. Vậy đã tỏ
nó chỉ là biểu tượng.
Lúc ấy ta mới hiểu hình xếp
trong cán qua tìm được cả ở
Hà Nam và Tây Sơn Bắc
Việt (mà người ta đoán thuộc
nhà Thương Ân) và
hình một thứ phủ việt tìm
được ở Đông Sơn cũng trên 2
(hai giao long) dưới 3 (ba người hoặc ba
con vật) tất cả đều diễn tả bộ số ngũ
hành là “vài ba
tham lưỡng”, nên ta biết bộ
số này xuất hiện đã
lâu lắm. Ở Bắc Sơn là
quãng –5000 năm, còn Long
Sơn và Phùng Nguyên
lối –3000 năm. Nhưng đó chỉ
là những mảnh vụn mà ta may
mắn gặp được chứ không phải
là một lâu đài đầy đủ.
Nếu gặp đủ chắc chắn chứng từ sẽ
chói chang hơn nhiều.
2.
Thuyền tình bể ái
Nếu
nói về lâu đài đầy đủ
phần nào thì phải đi đến
Trống Đồng (đầu thiên niên kỷ
tr.c.n, quãng thế kỷ 7-9).
Đó là bản tóm
trác việt về Đạo Nội, gồm đầy đủ bộ
số 2-3-5 mà nổi bật nhất là
số 2 chỉ lưỡng nhất tính. Huyền
thoại nói rằng bà Nữ Oa lập
ra phép linh phối (hierogamy) trong
khi sách Trung Dung rằng: “quân
tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ” =
đạo quân tử khởi đầu từ việc vợ
chồng. Những dữ kiện hợp nhau trên
giúp ta thấy tính chất của
Đạo Việt là nó khởi đầu từ
việc vợ chồng, có nghĩa là
không khởi đầu tự đạo trời hay đạo
đất nhưng từ đạo người, mà cụ thể
hơn cả là vợ chồng. Có vợ
chồng rồi mới có con cái,
có cha mẹ, rồi mới có vua
tôi... Vì thế Kinh
Hùng mở đầu bằng những cuộc phối
hợp có tính cách linh
tượng như giữa Đế Minh với Vụ Tiên,
giữa Lạc Long Quân với Âu
Cơ... Tiếp theo tinh thần đó xin
dùng ánh sáng
Vô vi để thử tìm hiểu con
thuyền tình bể ái trong
Trống Đồng.
Thuyền
tình là thuyền đã
biến ra thể rồng, một thứ rồng tràn
ngập tình tự và đang
há miệng để nhận lấy cái
hôn nồng cháy của chim
âu đưa mãi vào tận cổ
họng. Còn nói bể ái
là vì thuyền đang bơi trong
nước nên nói là bể để
chỉ mối tình ân ái
mênh mông như biển cả. Thuyền
tình bể ái đó
là ai? Ai mà cả gan
làm tình một cách lộ
liễu như vậy, phải chìa mặt ra coi.
Câu hỏi có vẻ diệu vợi nhưng
may thay nhờ vào huyền sử ta
tìm ra câu đáp.
Đó là “Lạc Long Quân
gặp Âu Cơ trên cánh
đồng Tuơng” (Kinh Hùng số 5).
Vì đây là phạm vi
huyền sử thì mọi chữ cũng như mọi
cử chỉ đều hàm tàng nhiều
ý nghĩa cần phải cân nhắc cẩn
trọng.
Trước
hết hãy nói về cặp đôi
“Tiên Mẫu Long Phụ”. Đó
là hai vật biểu của nước ta.
Có lẽ Việt là nước duy nhất
nhận hai vật biểu đi đôi chứ
các nước chỉ có một, rồng
của Tàu, voi của Ấn, gà của
Pháp, chim ưng của Mỹ...
Riêng Việt nhận cả tiên lẫn
rồng tức là con số 2 nền tảng của
cơ cấu đó. Hai vật biểu lại ở đối
cực: chim bay trên trời rồng lặn
dưới biển, vậy mà gặp nhau được mới
tài. Tiên mẫu được đại diện
bằng chim nước: như Âu Cơ tức
là hải âu, Hồng Bàng
là một thứ ngỗng trời gọi là
chim hồng hộc, Vụ Tiên là vịt
trời, Lộ (Bàn) là cò
trắng... Cần chú ý hai điểm:
một là chim nước, hai là bay
cao. Bay cao được bày tỏ rõ
nhất trong chim hồng cũng gọi là
thiên nga hàm ý bay
thật cao để chỉ Trời. Còn rồng chỉ
đất nên ở tận thuỷ phủ. Trời đất tuy
xa cách nhưng phải gặp nhau
thì mới sinh ra được con người
Hùng Vương, như ta xem thấy đứng lố
nhố trên lưng thuyền rồng.
Bạn
sẽ hỏi sao mà chóng thế,
ông bà chưa ái
ân xong mà đã con
đàn cháu đống đứng đầy
trên thuyền và hơn thế nữa
tất cả đều đã khôn lớn,
đã biết ca vũ tưng bừng là
cái nghĩa chi vậy? Thưa có
sự tréo cẳng ngỗng như vậy
là vì đây là
truyện cõi tiên thì
nó theo luật nghịch chiều “đẻ trước
dục sau”. Ở cõi trần giao cấu trước
rồi có thai sau, trên
cõi tiên trái lại
có thai trước rồi mới giao cấu sau.
Ai đã tu Vô vi cũng nghe biết
phải tu đến trình độ cao cho tới
khi tiến tới cõi tiên
thiên thì hồn mới gặp lại
vía như cô vợ lý tưởng
mà cuộc động phòng nghe
nói còn cực lạc gấp
ngàn lần những cuộc dục ở trần
gian, phải nói là ngụp lặn
trong biển phúc lạc, nên
quyển Chơn Lý gọi tu chính
là dục, vì cuối cùng
cũng có giao hoan rồi cũng
có thai y hệt dục ở cõi
trần. Có điều ở trần thì dục
trược nên miếng hoan lạc vừa
nhô ra đã bị kẹp giữa hai tấm
bánh đắng cay. Nietzsche bảo
cái thú chơi gái đầy
nguy hiểm là vậy. Còn dục
trên cõi tiên là
dục thanh, thai nghén trước rồi mới
dục sau. Cho nên Âu Cơ Nghi
Mẫu đẻ ra cái bọc trứng trước
(Mô-ni-châu hay quả cầu
sáng?) rồi có con sau, cuối
cùng mới gặp Lạc Long Quân
trên cánh đồng Tương.
Cánh đồng Tương là Bồng Lai
tiên cảnh, đó là tiền
đường của cuộc phối thiên. Vì
sự nghịch chiều này nên
cái thuyền tính trong Trống
Đồng chính là phác
họa lại cái dục thanh của mẹ
Tiên cha Rồng. Đó là
hậu quả của Đạo Nội cũng gọi là Đạo
tu tiên. Cho nên huyền sử nước
Việt tràn đầy Tiên là
do lẽ đó.
Như
vậy chim thiên nga chỉ Trời, Lạc
Long Quân ở thuỷ tề chỉ Đất,
còn giao cấu đổi thành Giao
chỉ cho bớt tính cách ‘sexy’
nhưng khi vẽ ra hình thì
dùng thuyền tình bể
ái. Đó chính
là con thuyền bát nhã
đưa người từ bến mê sang bến
giác. Kinh Dịch chỉ việc đó
bằng câu “thiệp đại xuyên”
= lội qua sông lớn. Mỗi tên
nói lên một khía cạnh.
Bát nhã nói lên
sự thức giác, Dịch Kinh nói
lên sự lội qua sống là biến
đổi tâm thức, còn Việt gọi
đó là thuyền tình bể
ái, mỗi tên có một
cái hay. Cái hay của Kinh
Dịch đòi phải giàu
trí nhớ để nối vào cuộc “đạp
thanh” tức giao cấu trên nền cỏ xanh
xảy ra sau khi lội qua sông trong
cuộc hát trống quân xa xưa.
Như vậy tuy có hấp dẫn nhưng
nói bóng gió
không trực chỉ bằng tên thuyền
tình bể ái, lại có
hình nữa, sức lôi kéo
có thể mạnh hơn cả “con thuyền bến
Ngự” nên đầy khả năng hấp dẫn,
có thể kéo cả những
ông râu xồm vào tu
lúc nào không hay:
cũng soi hồn và pháp
luân như ai chứ bộ. Hoan hô
các ông hết mình, chỉ
xin dặn nhỏ rằng trên thiên
tiên tuyệt đối không có
cái vụ “tiền trảm hậu tấu” như dưới
cõi trần: đừng có
nóng mà đâm ra vọng
động. Phải kiên trì,
đó mới là học chữ Dũng. Nhớ
câu Nho “trì kỳ
chí, bất bạo kỳ khí”:
phải bền chí chớ phung phí
khí. Dũng tại kỳ trung hỹ.
3.
Trống Đồng canh đã điểm ba
Hỏi
tại sáo lại tạc hình thuyền
tình bể ái trong Trống Đồng?
Thưa vì mối liên hệ giữa hai
đàng rất mật thiết. Huyền sử kể
rằng “ở Hội Kế kinh đô U Việt
có trao một cái trống lớn
khi nào con bạch hạc bay qua chạm
vào thì trống kêu vang
rền, tiếng vang tới mãi Lạc Dương”.
Bạch Hạc là biểu hiệu của người tu
tiên đắc đạo gọi là vũ
hóa (nghĩa là hóa ra
có lông cánh như
chim). Mẹ Âu Cơ ở Bạch Hạc phải hiểu
là tu đã đạt độ vũ
hóa. Tu đắc đạo thì
đánh trống mới đúng
cách, mà đánh
có đúng cách
thì tiếng mới vang tới Lạc Dương.
Lạc Dương là kinh đô Trung
quốc cũng xưng mình là
thiên hạ, nên nói tiếng
trống vang tới Lạc Dương là
nói vang khắp thiên hạ. Tại
sao tiếng trống lại lan rộng như vậy? Thưa
là vì sức hội nhập của
nó vô cùng. Kinh Lễ
nói: “Cổ vô đương ư ngũ
hành, ngũ thanh bất đắc bất
hòa” = Trống không
tương ứng với ngũ thanh, nhưng ngũ thanh
mà không được Trống
thì không thể hiện thực được
cuộc Hòa. Ngũ thanh là
âm nhạc, mà âm nhạc
có tiếng là nữ hoàng
của các nghệ thuật vì khả
năng hòa hợp của nhạc cực cao,
người ta hay nói về nhạc là
hòa âm, hòa nhạc, vậy
mà Kinh Lễ nói thiếu Trống
cũng đành bó tay không
hiện thực được cuộc hòa là
có ý nói về cuộc
Thái Hòa: hòa hiện
tượng với siêu linh, là
vì thanh là đợt vi tế cuối
cùng của cõi hiện tượng,
nhưng cũng còn là có:
có vi, có tế, vẫn còn
là Hữu vi chưa thể làm chủ
cuộc Thái Hòa nên phải
nhờ đến Vô vi hàm tàng
trong cái Trống mới hiện thực được.
Vì thế mà có
câu phương ngôn “ba hồi
trống thu không”.
Để
hiểu được câu này cách
thấu triệt lại phải dùng đến cơ cấu
bằng ôn lại cách xếp đặt ngũ
hành theo hai vòng sinh khắc
như hình kèm theo...
Hai
vòng xoay ngược chiều nhau để chỉ
tác động và phản động rất
cần thiết trong quan niệm tiến hóa.
Lạc Thư cũng như Trống Đồng đều đi theo
vòng khắc. Nói đơn sơ
là “tả nhậm” tức đi theo
vòng ngược chiều kim đồng hồ. Trong
Trống đồng các người vũ để tay
trái hướng về mặt trời. Sách
cắt nghĩa chữ khắc là hoạch (khắc
giả hoạch dã). Hoạch
là thu hoạch nên “ba hồi
trống thu không” có nghĩa
là đi theo đường Trống Đồng
(vòng khắc) mới Thu được cái
Không chân thực. Ba hồi trống
là các số 2, 3, 5 hay
hành Hỏa số 2 khắc Mộc số 3, Mộc
khắc Thổ số 5. Xem vào hình
vòng khắc sẽ thấy số 3 tiến
vào số 5. Đó là biểu
tượng, còn nói theo Trung
Dung là “khủ phù ngoại
dụ chi tư, nhi sung kỳ bổn nhiên
chi thiên” (câu 1) =
“là từ bỏ những cái trần
trược bên ngoài có
tính cách dụ dỗ, để
làm cho cái gốc thanh của ta
thêm sung mãn”. Thực hiện
là Vô vi bịt lỗ tai,
cài lỗ mắt, ghìm cái
tinh để làm cho mạch chấn lực bộ
đầu thì sẽ thu được cái
Không chân thực, biểu lộ bằng
diệu hữu là trụ được điểm, rồi sẽ
có thánh thai, xuất hồn,
tâm thần thanh nhẹ để “tiêu
tao du”.
Cũng
vì thế mà “ba hồi trống thu
không” đã được khua lên
trong Vô vi. Sách Chơn
Lý có câu:
Trống
Long Hoa giục đến giờ,
Sao
con cứ mãi chần chờ vậy con?
Trống
Long Hoa đã giục nhưng trước
đó cũng đã gại Trống trong
câu dao miền sông cầu thường
được hát khi múa trống rồng:
Trống rồng canh đã điểm
ba.
Trống
rồng là trống Long Hoa đó.
Tại sao lại gọi là trống? Thưa
vì Pháp lý Vô
vi là trống trơn: vô
là không, vi là du
bé cũng không. Bởi thế
pháp này được ban ra cho
loài người để sửa soạn Cơ Quy Nhất
là vì nó giống như
bản tính của Trống Việt tức
là trống rỗng. Nói
Pháp lý Vô vi hay
nói Đạo Trống cũng là một,
cho nên nó mới hợp nhau từng
chữ như thế. Vô vi nói “Long
Hoa kỳ ba” thì Đạo Trống nói
“ba hồi trống thu không”. Đạo Trống
nói: “Trống Rồng canh đã
điểm ba”, thì Vô vi
nói: “Trống Long Hoa giục đến
giờ”.
Lại
còn vụ khai mạc Trống khi mới
đúc xong thì xưa kia đều do
các bà, nay câu Trống
Long Hoa cũng do miệng Đức Linh Nữ Kim
Thân. Hợp nhau từng nét như
vậy đó, vì thế mà
tiếng Trống mới được khua lên để mở
hội Cơ Quy Nhất: quy Tam hợp Ngũ nhờ
nguyên lý Chí Trung
Hòa của Trống Việt.
4.
Nguyên lý Chí Trung
Hòa đã bày tỏ trong
Trống Việt
- Đâu nào? Xin chỉ
cho coi.
- Đây nè:
trên mặt trống đó.
- Mặt trống à, có
thấy chi đâu?
- Đây nè:
hãy xem cho kỹ trên mặt trống
có tất cả 5 vòng chia ra 3
đợt.
Đợt
ngoài cùng gồm 2 vòng
chim và nai đại diện cho đất.
Đợt
giữa gồm 2 vòng đại diện cho người
cả tiểu ngã (vòng người đang
múa) lẫn đại ngã
(vòng những tam giác gốc).
Còn
vòng trong cùng là
đại diện cho Trời ta gọi là mặt
trời (tức thay mặt cho Trời) đó.
Vậy
là đủ mặt Thiên Địa
Nhân tức gồm toàn vũ trụ rồi
còn chi. Toàn vũ trụ thế
mà tất cả đều hòa hợp, đều
đang cùng nhau ca vũ. Đó
không là cảnh Thái
Hòa sao. Đây là điểm
một.
Điểm
hai tất cả các vòng vũ đều
đang tiến theo chiều “tả nhậm” tức tiến
ngược kim đồng hồ, có nghĩa
là không tiến ra mà
lại tiến vào, vào đến
cùng cực là mặt trời.
Nói mặt trời là nói
tạm chứ trời có mặt đâu, trời
chẳng có chi hết, vô vi hạng
nặng mà lị. Có vậy mới
là trung tâm quy hợp cho tất
cả muôn loài. Nói theo
Lão: nõn xe có rỗng
thì mới là chỗ quy tụ cho
mọi đũa xe.
- Đã thấy rồi, rõ
ràng là cuộc Thái
Hòa: hay quá ta!
- Vậy mà chưa hết,
đó mới là mặt ngoài
chứ bên trong còn lắm điều
hay.
- Đâu nào xin
nói thử nghe thêm chút
nữa, ham quá ta.
- Muốn xem nữa hả? Hãy
lật ngửa Trống lên.
- Rồi.
- Đít Trống có bịt
kín không?
- Không.
- Bên trong có thấy
cái chi không?
- Cũng không nốt.
- Đấy! Cái hay ở chỗ
đó, ở chỗ không có
gì, không bịt kín: thế
mới thực là Trống chứ. Nhờ vậy
mà cái Trống mới hay
vô cùng, quả đáng tham
dự vào câu “chân
không diệu hữu”. Thế nhưng
biết bao người không thấy được rằng,
cái Trống muốn là cái
Trống thì phải trống phải rỗng.
Chính vì trống không
thấy thế nên du mục Bắc phương mới
đem trống mà bịt kín hết rồi
người ta cứ để nguyên tên cũ
mà gọi là cái trống,
thành ra cái trống đã
bị bịt kín rồi đưa ra đánh
hồi lùng thì làm sao
mà hiểu được chữ “ba hồi trống thu
không”. Phải là trống rỗng
mới thu được cả ba Trời Đất Người quy
vào Một mối được chứ. Có thế
mới thống nhất được con người. Vậy
mà xưa rầy nhiều đạo giáo ưa
đánh trống đã bịt kín
mít như vậy, cho nên
đánh thủng cả ngàn vạn trống
bịt kín mà đạo vẫn cứ
thoái hóa và
càng cố gắng thống nhất thì
càng ngoi ra đa tạp, đa phe, đa
phái cho nên Cha Trời mới
phải trao cho Tân Dân của Việt
Nho khởi lo việc quy nhất vì
cái Trống của Việt chưa bị bịt
kín. Cũng như Nho vẫn đặt lý
tưởng cao nhất ở chỗ “vô thanh
vô xú”.
Như
vậy cả Việt lẫn Nho đều tỏ ra còn
tương đối giàu chất Vô vi
hơn, xứng đáng đứng ra khởi
công lo Cơ Quy Nhất, nhất là
phía Việt càng tỏ ra
chú ý tới cái Trống,
vì Trống đã không bịt
kín, thế mà lúc treo
Trống để đánh còn cẩn thận
treo cách mặt đất 20 phân,
bên dưới khoét cái lỗ
sâu 30 phân để chỉ trời 3 đất
2 giao thoa. Trời ở trên nằm
úp xuống mặt đất (để giao chỉ). Lối
treo này còn được duy
trì trên Mường cho mãi
tới đầu thế kỷ này. Đó
là lối treo nhằm nhấn mạnh chữ
“Chí Trung”: trung đến không
còn chi, đã trống tức chưa
bịt kín vậy mà bên
dưới còn để trống đúng như
con số cơ cấu 2-3 thì biết tiền
nhân muốn nhấn mạnh đến chữ Trống
ngần nào. Các ngài
thâm tín rằng có vậy
tiếng trống mới lan ra khắp hàng
huyện, ta có thể nói “lan
khắp hoàn vũ”. May thay muốn được
thế thì không còn phải
dùng biểu tượng cái Trống
nữa vì ta đã có Trống
Vô vi không bịt kín,
nên hy vọng tiếng trống sẽ nghe ran
khắp hoàn cầu.
5.
Kinh vô tự
Cha
Trời đã bảo Vô vi là
“chân kinh vô tự”. Về điểm
này Việt Đạo cũng lại giống
Vô vi nữa vì cũng có
kinh vô tự. Vô tự mà
lại là kinh tức Không
mà Có, Có mà
Không đúng đạo Trống.
Vì không tức không
có chữ, nhưng lại có
nên phải biểu thị bằng đồ
hình và số độ. Sau đây
xin kể ra hình thức đầu tiên
của kinh vô tự mà ta quen
nghe nói tói, đó
là:
Sách
ước, gậy thần. Đây chính
là tên của kinh vô tự,
không có chữ mà chỉ
có vài ba số tức 2, 3, 5
thuộc vòng sinh cũng gọi là
vòng trong, rồi thêm 4 số
vòng thành (6, 7, 8, 9) cũng
gọi là vòng ngoài
thành 9 như hình sau:
Huyền sử nói gậy
thần có 9 đốt, ai biết cầm
vào đốt thứ năm thì biết
được cả sống lẫn chết. Vua Hùng
có gậy thần, Kinh Hùng gọi
là “huyền thuật” nhờ đó uy
quyền trải khắp 15 bộ nước Văn Lang. 15 bộ
là có ý đề cao hai bộ
số 3 và 5 (3*5=15). Huyền sử
nói ai mà nắm được số 5
thì biết được cả đạo sống lẫn chết,
đó là Thái
Hòa, sống chết khác nhau vậy
mà hòa được là nhờ số
5 của Ngũ hành. Như vậy sách
ước gậy thần không là chi
khác hơn là Ngũ hành.
Kinh
Dịch. Sau sách ước gậy thần
thì phải kể tới Kinh Dịch.
Đó là cuốn kinh có 5
giai đoạn hình thành
thì ở ba giai đoạn đều hoàn
toàn vô tự. Một là đạo
Dịch của trời đất biểu diễn bằng
các cặp đôi trong huyền thoại
như sông núi, tiên
rồng. Hai là đạo Dịch của Phục Hy
biểu thị bằng các nét đức
và liền. Giai đoạn ba của ông
Đại Vũ thêm số 9. Từ giai đoạn bốn,
rồi năm mới có chữ gọi là hệ
từ nghĩa là “lời treo” tức treo
vào quẻ đã có từ
trước. Tinh hoa của Kinh Dịch nằm gọn
trong ba bộ số 2, 3, 5 (âm dương,
tam tài, ngũ hành)
còn các lời thêm
vào tuy có giúp phần
nào cho người sau hiểu được
ý kinh nhưng cũng là cớ
gây ra sa đọa, nhất là Dịch
của Văn Vương. Có thể nói hệ
từ gây cả lợi lẫn hại, nhưng hại
nhiều hơn lợi. Nay muốn hiểu được tinh
thần đó thì có thể
đọc Trung Dung. Sách Trung Dung
chính là một quyển kinh của
Việt Nho mà đồng thời cũng
có thể là kinh của Vô
vi vì nó cung ứng cho
Vô vi tất cả: từ tên gọi đến
định đề (prémise), nguyên
lý và tinh thần nữa.
Sách
của thần Tản Viên. Ngoài Kinh
Dịch ra thì còn một số huyền
thoại khác liên hệ đến kinh
vô tự như Lạc Thư đã
nói đến nơi khác hoặc như
truyện Thần Tản Viên xuống thăm vua
Thuỷ Tề là Lạc Long Quân được
ban cho một sách chỉ có 3
trang giấy trắng và thần đã
đọc 2 trang... Đó ta thấy con số
2-3 xuất hiện. Trong Đạo Nội có tứ
bất tử thì thần Tản Viên đứng
đầu rồi tới Chử Đồng Tử và
Thánh Dóng, sau cùng
là bà Chúa Liễu Hạnh.
Đó có thể là
cách diễn tả bộ số Ba thường cũng
xếp thành hình tam
giác gặp được lu bù trong
Trống Đồng. Ta có thể xếp tứ bất tử
thành hình tam giác
như sau:
Tản
Viên giữ góc trên để
tỏa ra 2 phía. Tản Viên tức
hình tròn (viên chỉ
thiên) tỏa ra (tản ra) hai
bên: số 2 chỉ đất, làm
thành hình ba góc,
nên Thần cũng có tên
là Ba Vì.
Thánh
Dóng là quan thầy triết
lý An vi, không nói
mà chỉ làm là đuổi
quân xâm lăng (đó
là khử trược) tới lúc
thành tựu không màng
công danh, lợi lộc, nhưng lên
núi Sóc Sơn ở miền An Việt
để hóa ra tiên. Chử Đồng Tử
là quan thầy Vô vi
phái tả chân: vô
là không, vi là khố,
ông đã cởi bỏ trần trược đến
cái khố cũng không
luôn. Liễu Hạnh đại biểu
nguyên lý mẹ nên quy ẩn
(trong ngoặc) nhưng vẫn là
Bà Chúa Xứ tức làm
Chúa của văn hóa nên
nó không đốc ra đực rựa.
Nón
chóp và linh tinh.
Đã
nói đến sách “Ba Vì”
cũng xin nói thêm về
cái nón chóp
có hình tam giác.
Đó cũng là một thứ kinh
vô tự. Ban đầu tôi không
hề để ý đến ý nghĩa
nón chóp, nhưng khi
nghiên cứu gặp thấy những
hình vẽ người có đầu nhọn
như tam giác và ghi
chú sự nhọn đó chỉ tinh thần
thì tôi đặt vấn đề nón
chóp có được tiền nhân
ta gửi gấm ý nghĩa chi chăng? Tại
sao toàn dân dùng
nón chóp một cách bền
bỉ? Cuối cùng tôi khám
phá ra cái chóp chỉ
mặt trời tỏa ánh xuống chung quanh
đầu: chung quanh là vòng
tròn, là số 3 hợp với số cơ
cấu của Việt Nho. Suy đoán như vậy
là do tôi đọc biết Kim Tự
Tháp là hình ảnh mặt
trời chiếu xuống 4 phương, còn mặt
trời là đỉnh tháp.
Lúc ấy tôi mới nghĩ đến
nón chóp cũng như vậy. Sự
suy đoán còn được kiện chứng
bằng những tượng Chàm đầu nhọn,
cũng như tượng Núi Nưa cũng đầu đội
mũ nhọn và nhất là cuối
cùng khám phá được
ý nghĩa những tam giác đặt
quanh hình mặt trời mà
các học giả đầu tiên gọi
là tam giác gốc. Sau bao suy
trước tính sau tôi mới nhận
ra đó là Đại Ngã
Tâm Linh quan trọng vô
cùng trong nền triết học nhân
chủ, nên có vô số
hình tam giác nhỏ rải
cùng khắp mặt trống. Nay gặp
Pháp lý Vô vi
thì nón chóp nhắc
tôi tới cái tam giác
của điển quang pháp giới là
Tinh, Khí, Thân mà
ông Tư có vẽ ra hình
tam giác trong quyển Phép
Xuất Hồn (tr.46 và 48). Từ đấy
tôi coi nón chóp
là nón đã xuất hiện
tự lúc cha ông ta còn
thờ mặt trời, và nón
chóp đã được giao phó
nhiệm vụ làm biểu tượng cho việc
đó. Điều suy đoán này
hợp bầu khí văn hóa Việt Nho
quen gửi ý tưởng vào sự vật
thường dùng như nhà ở,
áo mặc, mũ, nón. Thí
dụ Nho gia xưa đội mũ tròn chỉ
trời, chân đi giầy vuông chỉ
đất. Còn Việt thì đội
nón chóp chỉ mặt trời
và sau cũng là Trời,
còn áo thì có
5 cúc: 2 cúc trên ngực
còn 3 cúc ngang hông.
Nhân tiện xin nói đến hai
việc nữa là luyện thuốc trường sinh
và thai tức.
Luyện
thuốc trường sinh
Luyện
bằng chất đơn sa (cinabre) là một
sự hiểu trật chữ tâm pháp.
Vì tâm là một khối
có màu đỏ nên cũng gọi
là hồng trần. Từ chữ hồng chữ đỏ
đó dẫn đến chất đơn sa có
màu đỏ, nên đơn sa cũng gọi
là chu sa là chất đứng đầu
trong thuốc trường sinh: chính
nó đã giết hại khá
nhiều nguời muốn đi tìm trường sinh
trong nẻo ỷ lại, cậy dựa vào thuốc
bên ngoài.
Thai
tức và tinh thai.
Hiểu
theo Vô vi là pháp thở
làm cho nảy sinh thánh
thai... nhưng vì sự suy
thoái nên đã hiểu quặt
ra phép “hoàn tinh bổ
não” trong Đạo Giáo
là đưa tinh lên đỉnh đầu để
được sống lâu. Phép đó
đưa đến lối thiền bằng giao cấu bên
Tây Tạng: hai bạn đạo một nam một nữ
giao hợp trong thế ngồi quay mặt
vào nhau và cứ để trong
trạng thái tĩnh cho hai luồng
khí âm dương không xuất
mà chỉ bồi dưỡng nhau như thấy
những tượng tạc thần nam nữ đang ôm
nhau trong thế giao hợp đó (gọi
là maithuna) để đưa tinh lên
đỉnh đầu như được tả trong sách Đại
Hỉ Lạc Thiền Định. Pháp này
cũng thấy bên Ấn Độ trong Kundalini
yoga đem tinh thai (bindu) lên đỉnh
đầu nơi hoa sen nghìn cánh
để đạt trạng thái vô nam
vô nữ, là trạng thái
giống Thượng Đế, nên là Niết
Bàn cực lạc. Quan trọng là
sự hình thành tinh thai.
Có sách bảo rằng phải
hình thành bằng thiền định,
nhưng phần lớn bảo rằng đàn
bà thực để thúc đẩy
khí âm trong hàn giả
chỗi dậy rồi dùng phép thở
và tập trung tâm trí
mà đưa tinh lên đỉnh đầu,
lúc ấy tinh khí biến ra tinh
thai (bindu). Chính trong ý
đó mà có câu
châm ngôn “Phật tính
nằm ngày trong âm vật:
buddhatvam yosit-yoni-samastra”.
Khó có thể xét
đoán lối hành pháp
này đi tới đâu, chỉ biết
đã có nhiều lạm dụng
nên bên Tàu từ sau đời
Đường các sách liên hệ
đều bị kiểm duyệt gắt gao nên thất
truyền hoặc đi vào mật tông.
Ở đây chỉ nhắc sơ qua để biết trong
dĩ vãng đã có dấu vết
như thế. Nay nhờ ánh sáng
vô vi ta có thể hiểu được
là tinh thai chính là
Thánh thai bị hiểu quặt đi.
Còn
biết bao pháp về thở, về chay tịnh
(tịch cốc) tràn đầy trong trăm
ngàn sách (Đạo Tạng) của
Lão giáo đều chứng tỏ
đã có đạo tu, tuy xét
về công quả và công
trình thì rất cảm động, tỏ
ra lòng tu đạo rất thâm
sâu, nhưng về công phu
thì có nhiều thoái
hóa, may nhờ Pháp lý
Vô vi ta lại thấy được ý
nghĩa trung thực của các biểu tượng
xưa đã bị bóp méo
nhiều khi đến độ kỳ dị như phép
hoàn tinh...
Vũ
chú cửu đỉnh
Bây
giờ xin nói đến trang huyền sử lẫy
lừng là thiên Vũ Cống trong
Kinh Thư nói về vụ ông Vũ
đúc 9 đỉnh. Đây là
biểu thị việc Việt Đạo cải hóa vănn
hóa du mục Bắc phương đại biểu bằng
ông Cổn là cha ông Vũ.
Ông Cổn không trị thuỷ nổi
vì làm chìm mất ngũ
hành, tại ông đắp đê
ngăn nước. Đến lượt ông Vũ lên
thay cha không đắp đê nhưng
đào sâu xuống lòng
sông (tuẩn xuyên: tức nhận số
3) liền trị được thuỷ. Trị thuỷ
chính là cai trị nước
mà bí quyết thành
công là “hư tâm”= tức
biết giữ đạo Trống.
Huyền
sử còn chỉ xa nguyên do của
sự thành công bằng
cách khác là
“ông lấy vợ Việt” hiểu là đi
theo nguyên lý mẹ như Việt
Đạo vốn căn cứ trên bộ số vài
ba tham lưỡng. Sách Trúc Thư
Kỷ Niên nói ông Vũ
có “hai tai mà ba lỗ” (lưỡng
nhĩ tam lữu). Đọc câu trên ta
không hiểu làm thế nào
mà hai tai lại có đến ba lỗ!
Ẩn ý gì đây? May nhớ
có câu sách trong Kinh
Dịch ta lần ra ý nghĩa. Câu
đó là “tham thiên
lưỡng địa nhi ỷ số” = ba trời hai
đất là số để tựa: như vậy là
có số 3 và số 2 rồi, chỉ
khác chi tiết là ở đây
nói lưỡng trước tham (luỡng nhĩ
tham lữu) tức nói theo Việt
là 2-3 (vài ba). Rồi ta lại
tìm ra hình ảnh con số 2-3
trong cái lịch hay cái đỉnh
đều có 2 tai ba chân. Thế
là tìm ra ý nghĩa
tiêu biểu đầy đủ.
Đến
nay nhờ Pháp lý Vô vi
ta đoán thêm rằng hai bộ số
đó chắc là ám chỉ một
đạo pháp có thể giống như
phép soi hồn dùng 2 tay bịt
tai, mắt, tinh. Lão Tử nói:
“thường ngậm miệng, bịt tai, mắt nhụt
bén nhọn...” (ĐĐK 56).
Còn
tại sao lại có vụ đúc đỉnh
là do chữ đỉnh đầu. Y như vụ
có tên cái Trống
là do tâm hồn phải được trống
trơn, phải hư tâm. Muốn nhấn mạnh
thì dùng ngay chữ Trống đặt
tên cho hiện vật được dùng để
chỉ phép tu luyện gồm các số
2, 3, 5. Còn chữ đúc
thì do chữ chú ý
vào đỉnh đầu đọc trại từ chữ trụ
(trụ ý). Việc đúc thì
Tàu lại đọc là chú:
thành thử nói trụ ý
vào đỉnh đầu dễ dàng biến ra
chú đỉnh là đúc đỉnh.
Còn số 9? “Vũ chú cửu
đỉnh” ẩn nghĩa chỉ phương
pháp đạo tâm của Việt Đạo bảo
phải chú ý vào đỉnh
đầu mà người xưa gọi là
“thượng đan điền” có 9 ngăn đặt tự
trán ra sau gáy, ngăn giữa
là huyệt bách hội. Đó
quả là chú ý
vào đỉnh đầu như Vô vi, nhưng
vì thất truyền nên người sau
hiểu trật ra ngoài. Thành
thử nói ông Vũ trụ ở đỉnh đầu
nơi có 9 ngăn biến ra biến ra
ông Vũ đúc 9 cái đỉnh.
Sự hiểu sai đó có lối đọc
chữ TR ra CH: đọc trụ ra chú,
khách trú biến ra
khách chú: chú ba
Tàu có nghĩa là ba
ông Tàu trụ ngụ bị người ta
hiểu là chú là
bác.
Huyền
sử nói thêm rằng: đỉnh
dùng nấu đồ cúng không
cần lửa cũng sôi và nấu
chín được đồ ăn. Nếu lấy ánh
sáng Vô vi chiếu vào
thì ta biết tinh do thận thuỷ đưa
lên để khí hỏa luân xa
phanh luyện ra Thần, không cần lửa
vì đã có lửa
bên trong người gọi là hỏa
luân xa. Chính trong ý
đó mà có danh từ “lư
hương xạ nhiệt” lò hương tỏa
sáng. Lư hương theo nghĩa đen biến
ra các bình đèn
có ba chân thấy được lu
bù ở khảo cổ cả Tàu lẫn Việt
(Đông Sơn) mà xưa kia chỉ
việc tu luyện, còn nay dùng
để đốt hương cũng như các đỉnh vậy,
nhưng theo nghĩa nội thì ba
chân chỉ tam huê tụ đỉnh, hoặc
Tinh, Khí, Thần hoặc đạo Ba...
Đó
là đại để những dấu chân của
đạo pháp xưa đã để lại trong
những cái bé nhỏ không
ai ngờ: từ 5 cái cúc,
cái nón chóp, cho đến
những cái đỉnh 3 chân 2 tai,
nấu chín đồ ăn không cần
lửa... đều liên hệ với nhau một
cách cơ cấu mà huyền
sô 2-3-5 là then chốt, tất cả
đã xuất hiện rất sớm nói
là có mãi tự đời Thần
Nông. Đó có thể gọi
là những kinh vô tự mà
khi nhận thức ra được ý nghĩa tiền
nhân gửi gắm vào những biểu
tượng nọ liền hiểu được đó
chính là tâm đạo
và biết được tâm đạo nọ
đã được ban ra rất sớm, nhưng
vì bí truyền nên
các tổ sư dùng các
biểu tượng trên để biểu thị, nhưng
người sau không hiểu được nội dung
nên đã hiểu trật ra
ngoài sự vật như luyện thuốc trường
sinh, đúc đỉnh, thai tức ra giai
cấu thiền. Chỉ có Nho giữ được
nhiều nghĩa nội hơn trong phạm vi
chính trị, luân lý
và giáo dục như cơ cấu
hóa ngũ hành và đặt
con người vào điểm trung tâm,
nhờ đó có những câu “vũ
trụ tiện thị ngô tâm,
ngô tâm tiện thị vũ trụ”...
và những câu “thiên
lý tại nhân tâm”
với những khẩu hiệu đầy tính
cách nhân chủ như sách
Trung Dung (câu 25): “Thành
giả tự thành dã, nhi đạo
tự đạo dã”: phải tự tu
thì mới tiến (chữ đạo sau là
đi là tiến), phải tự thành
(thực hành) thì mới
thành tựu, tức nên
thánh (thành giả
thánh dã).
Nói
tổng quan: đạo nội có ngay tự đầu,
đến sau suy vi thì Lão
Thích giữ được ít nhiều phần
pháp, còn Nho thì
ít nhiều phần Lý, còn
một phần bàng bạc trong các
huyền thoại. Nay Vô vi xuất hiện
thì như ngọn đèn sáng
soi vào các biểu tượng
âm u kia khiến cho Đạo Nội lấy lại
được ý nghĩa trung thực để phục
hoạt. Ta thấy Đạo Nội đặc biệt chú
ý tới đầu: cất nhà có
lễ đặt đòn nóc (đòn
dông) khác Tây Âu
đặt viên đá đầu tiên,
rồi Nữ Oa đội đá vá trời (sẽ
nói sau) cho đến nữ Thần Mộc... đội
nón chóp, đúc đỉnh,
tam giác góc... Nay Vô
vi làm phép soi hồn
chú ý đến bộ đầu thì
ta thấy được mối liên hệ ngầm giữa
Vô vi và Đạo Nội. Tôi
không nói đến lễ tế
Thiên vì có phần thuộc
ngoại vương nhưng cũng là một “lốt
chân” vĩ đại của Đạo Nội. Tất cả như
được sáng tỏ lại cách lung
linh dưới ánh sáng Vô
vi. Nghĩ tới đó tôi thấy tự
lòng trào lên những
mối tình sâu thẳm đối với Cha
Trời khi ghi lại những dấu xa xưa của
tiên tổ với tâm hồn
tràn ngập tri ân. Chương
này bàn về những lốt
chân của Đạo Nội. Có thể hỏi
thêm rằng Đạo Nội có
tác động chi chăng? Thưa có
chứ. Để chứng tỏ Đạo Nội quả là Đạo
Trống tuy không hiện hình
mà vẫn có làm,
toàn Kinh không chữ nhưng vẫn
tác động mạnh, xin bàn
thêm trong chương tới.
VI. Trống
Việt thường lung lay bóng Phật
1.
Từ huyền sử tới lịch sử
Trống
Việt Thường là Đạo Việt. Còn
bóng Phật xin hiểu là Phật
giáo đã suy thoái, do
đó đã bị Việt Đạo điều chỉnh
nhiều lần.
Lần
đầu là truyện Man Nương trong Kinh
Hùng đã biến đổi Phật Kim ra
Phật Mộc. Nói bằng số là từ
số 4 ra số 3; từ duy dương sang miền
âm dương hòa của nữ Thần Mộc
tức miền mà nguyên lý
mẹ làm chủ văn hóa. Cho
nên sau này khi thần Avalo
Kitesvara xuất hiện trên đất Việt
Nho đã mặc hình nữ là
Quan Âm. Khi còn bên Ấn
Độ Ngài là Thần Nam,
làm phó đức Di Đà
trong Tây phương tịnh thể.
Truyện
Man Nương chính là trang
huyền sử tuy vắn tắt nhưng báo hiệu
những lần đổi thay lớn sẽ xảy ra cho Phật
giáo khi truyền vào địa
bàn tổ của Việt Nho, mà ở
đây xin nhắc lại vài ba
trường hợp đặc biệt:
Lần
hai có thể quy tụ chung quanh
nhà sư Trúc Đạo Sinh
(365-434) vì đã nhấn mạnh
tính chất nhân chủ khi
tuyên bố Phật tính có
trong mọi người; Phật tức tâm,
tâm tức Phật, chỉ cần tìm
trong tâm mình thì
có thể đắc đạo khỏi cần cầu
ông Phật nào bên
ngoài. Cũng nên kể đến thuyết
đốn ngộ của ông cho rằng con người
có thể đạt đạo ngay trong một kiếp,
ngược với thuyết tiệm tiến bảo phải tu
trong nhiều kiếp. Đó là
những điều đặt nổi nhân chủ
tính tuy đã có trong
Phật giáo, nhưng vì bầu
khí thần chủ của Balamôn
nên không phát triển
được như khi truyền vào đất Việt
Nho.
Lần
thứ ba có thể quy tụ vào
Thiên thai tông do nhà
sư Trí Khải (tịch năm 597) với
câu “lý sự vô ngại”
và thuyết “Ngũ Thời”. Với câu
“lý sự vô ngại” ông
bác bỏ các thuyết coi đời
là ảo hóa, là huyễn
tướng. Trái lại đời cũng thật như
tâm, hai đàng thông
dung như kiểu Kinh Dịch: âm cũng
có thực như dương, lý cũng
thực mà sự cũng thực. Lý sự
viên dung: lý sự vô
ngại, sự sự vô ngại.
Với
thuyết “Ngũ Thời” ông tìm
cách dung hòa các
mâu thuẫn trong Phật giáo.
Ông cho sở dĩ có vẻ mâu
thuẫn là do đạo được truyền trong
nhiều thời khác nhau: có 5
thời là Hoa Nghiêm, A
Hàm, Phương Đẳng, Bát
Nhã, sau cùng là
Pháp Hoa.
Lần
thứ bốn là Thiền xảy ra với tổ Huệ
Năng (638-713) đưa vào Thiền
tính cách hành động
thay cho lối tu quá thụ động, biểu
thị bằng chín năm ngồi ngắm tường
của Bồ Đề Đạt Ma mà người
Tàu quen gọi là “Bích
quan Bàlamôn”. Huệ tổ cũng
chống lối tu quá thiên về
kinh sách, kéo chú
ý nghiêng mạch đến việc
làm, đến tâm tính. Tam
bảo của Phật giáo... tắt cho
giác ngộ, chơn chính,
và thanh tịnh. Đại để đó
là mấy cuộc biến đổi làm cho
Phật giáo dễ được chấp nhận cho
người theo Việt Nho. Chứ nếu để y
nguyên như bên Ấn Độ
thì khó lòng được
đón nhận vì hai đàng
theo cơ cấu khác nhau: đại để
bên Phật là Vô,
bên Nho là Hữu Vô. Nay
muốn được chấp nhận tất phải cải đổi cho
ra Hữu phần nào.
Niết Bàn ra Tòa
sen.
Bi quan ra Lạc quan (Đức Di Lạc)
Avolo nam thần ra Quan Âm
Thị Kính...
Tuy
nhiên những cuộc biến đổi trên
vẫn chưa đi đến triệt cùng. Trời
của Phật giáo vẫn còn rạn
nứt chưa ở được, không thấy Thượng
Đế đâu cả. Cho nên còn
cần đến bàn tay của Nữ Oa Nghi Mẫu
xuất hiện để nấu đá Ngũ hành
mà vá lại, rồi mời Thượng Đế
hồi kinh thì việc cải biến mới
là triệt để.
2.
Phải chăng Nữ Oa tái xuất giang
hồ?
“Nữ Oa đội đá
vá trời”. Đó
là câu nghe quá quen
thuộc nên không còn mấy
gợi lên gì trong tâm
trí con cháu, nhưng kỳ thực
câu trên hàm
tàng một nét đặc trưng hết
sức hệ trọng của triết lý Việt Nho,
là nền triết cân đối
có âm có dương. Điều
này lẽ ra phải là đức phổ
biến cho hết mọi nơi, mọi đời, như ban sơ
đã xuất hiện phần nào nơi
hầu hết các văn hóa. Nhưng
rồi đến đời phụ hệ đàn áp
nguyên lý mẹ, làm cho
văn hóa trở nên nghiêng
lệch, đốc ra một chiều, huyền sử gọi việc
đó là Cộng Công
húc đầu vào núi Bất
Chu là cột chống trời, nên
trời nghiêng đất lệch. May nhờ Nữ Oa
Nghi Mẫu ra tay vá lại, nên
con cháu Việt Nho vẫn còn
trời để che. Các nơi không
được mẹ Oa Lô vá trời cho
thì trời vẫn dột nát. Trời
của Phật giáo cũng bị thế.
Vì theo cơ cấu số 4 là số
Đất. Tứ đại là tứ tố mà
không là Ngũ hành
cân đối, nên Trời Đất
không được đặt vào
đúng vị. Trời bị soán
ngôi... Nên trước đây
đã được nguyên lý mẹ
vá qua loa hai lần: lần một với Man
Nương, lần hai với Quan Âm tống tử,
nhưng chưa hết dột. Nên vẫn
còn cần đến bàn tay của
Thái Mẫu. Phải chăng những lời sau
đây có ý báo
tin Mẫu đến:
Vì
nhiệm vụ lìa nơi cung thượng,
Đà
La Hoa thiên mạng hiện thân.
Chơn
âm ra lệnh ân cần,
Phật,
Trời, Tiên, Thánh cứu
thêm vài phần.
Các
giáo chủ hội về đầy đủ,
Để
xin cùng Thiên Mẫu
lãnh công.
Trước
lo trật tự giáo môn,
Sau
cùng các đấng lập phương
cứu đời.
Tiên
thiên đến hậu thiên hợp sức
Các
linh căn có xác dưới trần.
Đều
ra trình diện Mẫu Nghi,
Để
ra cứu nước cứu dân hội
này.
Mùi
hoa thơm Mẫu rưới khắp miền.
Tiếng
đàn nhạc trổi triền miên,
Chuông
ngâm trầm bổng ru hồn vạn linh.
..........................................................
Huyền
lực hóa vô biên
khó tả,
Xưa
Nữ Oa luyện đá vá trời.
Đà
Hoa vá đất hiện thời,
Chỉnh
luôn tam cõi mà đời
chưa hay.
Bầu
thái cực hóa sinh vạn hữu,
Cũng
là nguồn dưỡng dục muôn
loài.
Âm
dương tiêu trưởng vận hoài,
Ngũ
hành, tứ tượng, Hà đồ, Lạc
thư.
Đất
Nam Việt trung ương mồ kỷ,
Nơi
tập trung phát xuất huyền năng.
Kỳ
ba nắm hết chuẩn thằng,
Bảy
hai ba sáu (*) tuỳ tùng
lại đây.
Để
sau phát triển hậu lai.
....................................................
(Trích
lời sấm về Long Hoa của Hồng Quang
(1970). (*) Bảy hai chỉ đất, ba
sáu chỉ trời, tức cả vũ
hoàn)
Phải
chăng Mẹ (Mẹ mà Cha luôn)
đã xuất hiện rồi trong một
thân Nữ Việt?
Câu
hỏi trên tôi chỉ đặt ra sau
khi đã đọc đi đọc lại đến
nát quyển Chơn Lý
(sách thu thập những bài
nói của Kim Thân Cha)
và xét nét thật kỹ
thì thấy:
Tiêu
cực: không có dấu nào
gọi là lừa đảo tức không
có những lời mở lối cho sự
đàn áp con người. Vẫn nể
trọng con người đến cùng cực.
Không lời nào lớn lối,
ép buộc như dọa đe hay hứa hẹn,
cũng không có những
phép lạ thị oai.
Tích
cực: thấy là một nền triết
siêu diệu vượt hết thảy, nghĩa
là đừng nói vượt sức một
cô gái lại thuộc miền Nam
nước Việt nơi quá nóng
không tiện suy tư thâm trầm,
chỉ hợp cho văn chương nhẹ với ba
câu vọng cổ mùi... nhưng
là vượt xa luôn cả những tay
chuyên môn kỳ cựu về triết
học, bằng sắc treo lủng lẳng khắp nơi,
sách đọc có tới thiên
kinh vạn quyển cũng không thể
nói được như vậy. Trước một vấn đề
nào bất cứ, hễ đặt ra là
được trả lời liền, không cần sắp xếp
thế mà ý tưởng cứ
tràn ra cách lớp lang
và xoắn xuýt với nhau
làm thành mũi dùi
nhọn hoắc đâm thủng vào trung
tâm đề tài. Nói ngay
về lối văn đã là một sự hiếm
họa: trước những vấn đề sâu xa
hóc búa mà được
nói ra cách rất dung dị
mà vẫn đầy đủ và phong
phú, không hề dùng một
ngoại ngữ nào mà vẫn
trôi chảy đến độ nhiều người
không nhận ra cái tài
vượt khó khăn nọ. Nhưng những ai
chuyên môn mới thấy quả thực
đó là một áng văn
nghị luận trác việt. Xưa rầy Việt
Nam vẫn bị kể như không có
triết lý, đột nhiên xuất hiện
một quyển triết tuyệt luân bằng một
thứ tiếng Việt đầy đủ và phong
phú ngay trong phạm vi triết
lý siêu hình.
Đó quả là một hiện tượng kỳ
lạ. Chưa biết các điều nói
tiên tri về sau sẽ thật tới
đâu (nên tôi xin được
gạt sang một bên) chứ về văn
hóa thì Việt Nam đã
được một ân ban quý
giá là quyển Chơn Lý,
khiến người dè dặt đến đâu
cũng thấy đáng lưu tâm
nghiên cứu.
3.
Chung quanh vụ tiếp điển
Sau
khi thấy lời nói đáng tin,
chúng tôi mới hỏi han tra cứu
về hiện tượng. Được biết cô Lê
Hoàng Kim là nữ sinh trường
Oiseaux Đà Lạt, đỗ cử nhân,
đã dạy Pháp văn ở trường
Hưng Đạo (?) dùng hết tiền để
nuôi trẻ không cha mẹ sống
lây lất đầu đường xó chợ
(cô đã gửi chúng
vào các trường). Khi được
tiếp điển (lúc 25 tuổi, năm 1976)
đột nhiên cô thấy mình
sáng suốt lạ thường, thông
hiểu nhiều chân lý cao cả...
Dầu vậy cô vẫn nghi ngờ sợ bị
tà ma xâm nhập chi đây,
nên cô đã la lối vật
vã không chịu ngủ, cứ
nói: “xin ông ra khỏi
tôi”. Linh điển bảo cô đi gặp
ông Tám. Cô đã
đến gặp và nhờ ông chuyển
lên Thượng Đế lá sớ cô
viết để tố cáo vụ này
mà cô cho là việc của
“khối mạo hóa”. Nhưng ông
Tám đã chứng nhận
chính là điển Ngọc
Hoàng Thượng Đế, cô nên
về tiếp tục học. Thượng Đế bảo cô
mỗi tuần đến Thiền Đường (?) một lần để
ông Tám giúp
quân bình luồng điển. Chỉ học
ít tuần cô đã được
lên chức Kim Thân Cha...
Đó
là đại để về vụ này. Theo
những dữ kiện ít ỏi đã
thâu góp được có thể
nhận thấy những khác biệt với vụ bị
tà ma nhập hoặc ông lên
bà xuống như sau:
Trước
hết nếu là tà thì
người bị nhập mất tự do, mất sáng
suốt, mắt trở nên lờ đờ, mất
trí, có khi điên
khùng, sức khoẻ thường sa
sút. Trái lại cô Kim
vẫn giữ được sự sáng suốt, tỉnh
táo và tự do tức làm
chủ thân xác cũng như
tâm trí mình, sức khỏe
lại gia tăng.
Thứ
đến nếu phải là ma nhập thì
không làm gì có
vụ trải tiếng là tu cao nhất đương
thời, đó là ông
Tám. Ông đã mở huệ
nhãn có thể nhận định tường
tận về thế giới vô hình,
đã từng chứng kiến rất nhiều vụ
ông Tư đuổi quỷ, nên rất am
hiểu về hành tung của quỷ ma,
vì vậy việc chứng nhận của
ông có giá trị vững
chắc; ông đã phải tuyên
bố: “Ngài là chủ các
nhà truyền pháp” ngầm hiểu
rằng ông chỉ là thừa sai của
Ngài.
Ngài
chưa muốn cho nhiều người biết đến, chỉ
cho một số có đại căn duyên
mới được gặp. Khác hẳn nếu
là tà thì
thích ra mặt, nói ào
ào rứt ra không được...
Thường
những người bị tà nhập thích
làm phép lạ để khoe mẽ thị
oai. Đây không làm
phép lạ nào cả, chỉ
có một số sự vụ xảy ra như trường
hợp mỗi lần Ngài xuất hiện người ta
tuôn đến một hai trăm mà
công an không làm phiền
gì. Người ta đoán rằng: Cha
có làm sao đó mới
được như vậy, chứ luật lệ lúc
này là hễ tụ họp trên
10 người phải có phép.
Những
người được nghe Ngài thuyết giảng
đều cảm thấy rất say mê, ngồi gần
như được thanh nhẹ thoát tục, an
tịnh và phúc lạc như
quên hết cõi trần nhỏ nhen
này.
Tóm
lại không thấy dấu hiệu nào
tỏ ra là tà nguỵ.
Trái lại thấy là trường hợp
rất đứng đắn và dị thường nên
đã được hầu khắp giới trí
thức thuộc đủ các tôn
giáo: Phật, Cao Đài,
Hòa Hảo, Nho, Công
giáo... đã đến tra
xét và thử thách đủ
mặt cuối cùng đều phải công
nhận. Trong số đó nên đặc
biệt chú ý đến Công
giáo và Nho. Công
giáo xưa rầy rất thận trọng đối với
những trường hợp tương tự, thì hầu
hết bỏ ngoài tai coi như tà
ma quỷ mị không nên đụng tới.
Nhưng lần này cũng có một
nhóm đến xin diện kiến, đặt vấn đề
cách rất kính trọng: như mở
đầu bằng Kinh Thưa Cha... (được ghi lại
trong 2 băng và đã in ra
sách). Còn Nho thì
xưa rầy có thái độ gần giống
Công giáo đối với những
trường hợp tương tự thường tiên
thiên khinh rẻ không
thèm lưu ý. Vậy mà
lần này cũng cử phái
đoàn hùng hậu đến xin diện
kiến và trình bày rất
nhiều vấn nạn cũng như tìm hiểu
thêm. Tất cả đã được Đức
Ngài trả lời thỏa đáng như
được ghi lại trong quyển Chơn Lý.
Tóm
lại đây là một hiện tượng dị
thường có thể tin được theo niềm
tin của triết lý, nghĩa là
trước khi tin phải điều tra xét
nét thử thách cực kỳ cặn kẽ.
Vậy tất cả những gì phải là
(xét nét, thử thách)
đều đã được làm đến chỗ tận
cùng có thể, và
đã đi đến kết luận: có thể
tin được bằng niềm tin triết lý,
tức người tin không bị ép
buộc mà là do tự
tình, nên vẫn còn giữ
tính cách chọn lựa điều
nào nên nhận điều nào
nên gạt sang một bên.
Tóm lại có thể xem Kim
Thân Cha như một hiền triết thượng
thặng.
4.
Đà Hoa Nghi Mẫu
Xưa
Nữ Oa luyện đá vá trời,
Đà
Hoa vá đất hiện thời (đời ta).
Đà
Hoa là ai? Có hai lối thưa
nằm ngay trong lối đọc Đà Hoa
và cả hai đều đúng. Lối một
đọc là Hoa Đà chỉ một thần y
có tiếng chữa được những bệnh
không ai chữa được. Lối hai đọc
Đà Hoa: là đem lại tinh thần
hòa hợp càng đúng hơn
nữa. Bệnh trầm trọng nhất của nhân
loại ngày nay là bất
hòa, muốn hòa giải phải
có bàn tay thần y. Phải
chăng Kim Thân Cha chính
là Thần y đến với môn thuốc
đó ẩn trong dự phóng “quy
tam hiệp ngũ” và hiện đang hướng
dẫn các con Ngài luyện
đá ngũ hành để trát
lại trời là cải tổ các đạo
giáo, sửa lại các chỗ sai,
để quy tất cả về một mối gọi là
“quy Tam hợp Ngũ”. Tam giáo
là Thích, Lão, Nho
quy về một mối, Ngũ chi là
Nhân đạo, Thần đạo, Thánh
đạo, Tiên đạo, Phật đạo hợp một. Ta
thấy Người thi hành điều đó
ngay trong cung cách giảng giải:
nói như người cha mà
không như kiểu các nhà
lập đạo. Các vị này thường
đi theo lối phán truyền và
thường kèm thêm lời đe loi
hay hứa hẹn, coi người nghe là kẻ
phàm hèn mê muội.
Thí dụ: “Ta sợ chúng ngươi
còn mê muội... và
bây giờ các ngươi cả thảy
phải quỳ xuống... trước hết ta truyền cho
năm phần... Ta sẽ phá nghi cho
các người hết mê muội...
Hãy y theo lời kinh này
mà nói, ấy gọi là
chánh pháp”. Thường thường
các kinh sách vẫn kèm
theo những lời đe loi, hoặc hứa hẹn như
vậy.
Trái
lại Kim Thân Cha nói năng như
một ông cha giữa bày con:
hiền từ, ưu ái, xuề xòa, vui
tính để phân giải,
khuyên răn, thúc đẩy, soi
sáng... không hề dùng
kiểu phán truyền hoặc đe loi
thí dụ bay không tin tao sẽ
sa địa ngục. Trái lại Ngài
thường nói nếu các con
không tin Cha thì “hãy
gạt Cha sang một bên, Cha
không bảo con nào phải tin
Cha”. Cả đến những lỗi lầm ta cho
là cực kỳ vô phép như
vụ “Phật soán vị Thượng Đế”
Ngài cũng không để ý
đến, Ngài chỉ nói qua loa
khi “đứa nó hỏi Cha vậy chứ
ông Trời cao hay ông Phật
cao?” Với ta thì ngay việc
hỏi câu đó đã
là một tội quái gở, vậy
mà Ngài chỉ trả lời
cách cười vui giàn
hòa. Có người nói
quyết chí tu đến xuất hồn để
lên đảnh lễ Phật và Cha,
Ngài cũng chỉ cười và
nói êm cho nó hiểu
rằng “đảnh lễ Cha mới đến nơi con”.
Về niệm Phật, niệm Cha cũng thế.
Không nói thẳng mà chỉ
nói cách rất tế nhị để
nó hiểu niệm danh Cha mới
đúng.
Đó
là cung cách, còn về
nội dung thì là một sự
giàn hòa lớn lao: xưa nay
tôn giáo với khoa học hầu hết
ở thế đối nghịch. Tôn giáo
thì chỉ biết có tin, tin đến
mê tín. Còn khoa học
thì chỉ biết có lý,
lý đến duy lý, duy
trí, bám sát
vào mớ ý niệm của sự vật.
Vì thế cả hai không hợp nhau
được. Nay đến lượt Vô vi thì
tình thế rất lơ mơ vừa muốn
là khoa học nhưng lại thêm
tiếng Phật giáo và danh hiệu
thành ra cái tên
dài thòng một cách
vô duyên và tự
mâu thuẫn. Đã là
tôn giáo thì phải tin
cả những điều lý trí chẳng
hiểu ra sao cả thí dụ Adiđà
là ai? Tây phương cực lạc
có thật chăng, v.v... chưa biết vậy
mà phải tiên thiên chấp
nhận thì hẳn là trái
với khoa học không buộc tin
gì mà chỉ có việc
thực nghiệm và chứng minh để đạt
tới sự minh hiển khách quan
và phổ biến. Nói chung
không tôn giáo
nào có tính
cách khoa học, ít hoặc
nhiều, phần lớn là nhiều, đều chứa
lu bù mê tín.
Và đấy là yếu tố cản đường
không cho các tôn
giáo hợp được với nhau. Vì
muốn hòa hợp phải tìm ra
điểm quy tụ có tính
cách khoa học theo nghĩa tốt nhất
tức là phổ biến tính: ở
đâu và bao giờ cũng vậy, kiểu
luật vật lý hay toán học.
Điểm đó trong tôn giáo
hay triết lý phải là
Vô vi thứ thiệt. Tuy Đức Phật tỏ ra
đã ý thức điều đó khi
tuyên bố lấy Thái Hư
làm nền siêu hình,
nhưng đạo Phật truyền đến đời ta
không còn tinh tuyền Vô
vi mà đã đẩy Hữu vi dị đoan
mê tín rồi, thành thử
cố buộc Vô vi vào với Phật
tất mắc sẹo.
May
thay Kim Thân Cha đã đem đến
cho Vô vi một chiều kích mới
đó là nền triết lý
gắn liền với Minh Triết, nên
có tính cách phổ biến
đầy khả năng làm nơi quy tụ mọi
tôn giáo, đạo pháp hay
cả triết lý nữa như đã
bàn sơ qua ở trên khi
nói về cơ cấu. Như vậy là
thêm cho Vô vi chiều
kích Lý nữa, Lý viết
hoa tức thứ Lý mà khi
mình đạt được thì vạn
lý thông. Cái
lý đó khiến Vô vi trở
nên một Pháp lý
hoàn bị: không những
có Pháp chính
tông mà còn có
cả Lý siêu diệu đủ sức
hòa giải được tôn giáo
với triết học và đó
là đầu mối cho mọi cuộc hòa
giải khác.
5.
Triết lý đang hướng đến Vô
vi
Đó
sẽ là bình minh cho một kỷ
nguyên mới làm bằng
hòa hợp yêu thương mà
loài người đang mong đợi, nhưng cho
tới nay chưa làm sao thiết lập được
vì then chốt nằm trong triết học
và tôn giáo. Triết
có hòa hợp được với nhau
trước rồi với các tôn
giáo sau thì mới có
các hòa giải khác.
Vậy mà hiền triết còn đang
chia rẽ trầm trọng. Người ta hé
nhìn thấy căn do ở tại tính
chất cơ khí của triết học tức triết
còn nằm trọn vẹn ở đợt hiện tượng
như khoa học. Muốn đạt thân triết
học phải mặc được tính cách
cơ thể: hòa hợp được Có với
Không, siêu linh với hiện
tượng: hai đàng phải xoắn
xuýt với nhau một cách cơ
thể.
Hiện
nay nền triết này đã thấy
manh nha bên Âu Mỹ, rõ
nhất có lẽ nơi triết gia Mỹ
ông Whitehead. Người ta đã
tìm xem triết cơ thể này
đã được gợi hứng từ đâu
và đã tìm thấy dấu
vết của nó qua thuyết “đột biến”
(emergen evolution) của Lloyd Morgan
và Smut, rồi lần lên qua
thuyết biến hóa của Darwin, rồi qua
thuyết không mâu thuẫn
(noncontradiction) của Hegel (hiểu ngầm
là vừa có vừa không
một trật mà vẫn không
mâu thuẫn), rồi lên nữa đến
Leibniz, sau đó thấy bặt tăm. Thế
là phải kết luận nền triết cơ thể
mới bên Âu Mỹ được gợi hứng từ
Nho. Nhưng nền Thái Hòa
mà Leibniz đưa ra chưa hẳn
có tính chất cơ thể:
nó chưa đạt thân: cơ thể phải
tự nội, nội khởi, còn đây
phần nào nó giống với số
phận Thái Hòa tiền chế
(Harmonie préétablie của
Malebranche) tức do Thiên
Chúa xếp đặt trước
(préétablie) bên
ngoài sự vật chứ không phải
Thái Hòa nằm ngay trong sự
vật như trong cơ thể chính
tông, triết lý “cơ thể”
này thiếu chất tâm linh
không thể phát triển mạnh đủ
để trở thành một nền triết
lý nhân sinh chung cho cả mọi
người trong nước, mới chỉ là một
kiến trúc lý trí được
thông báo trong giới đại
trí thức như một đề nghị, một ước
mong, mới là trí lý
mà chưa là trí tuệ.
Tuy
nhiên cũng phần nào
giúp cho con người hé
nhìn ra nó phải tìm ở
đâu như được chứng tỏ trong hội nghị
quốc tế triết học Honolulu năm 1949 quy tụ
đại biểu triết học của khoảng 50 nước
trên thế giới. Sau nhiều ngày
bàn luận hội nghị đã đi đến
việc bầu Khổng Tử làm nhạc trưởng
(chef d’orchestre) để giữ đũa nhịp điều
khiển cuộc hòa tấu Đông
Tây đạo đời. Đó quả là
một sự vẻ vang cùng cực cho triết
Đông, nó đã đến
cách êm thắm kiểu “bất chiến
tự nhiên thành”. Nhưng
thành trên lý thuyết
mà chưa thành trên sự
thực, là vì Khổng hãy
còn nằm tê cóng trong
các sách vở Hán Nho,
chưa được gạn lọc để xuất hiện như
là Nguyên Nho hay đúng
hơn là Việt Nho. Điều này
chỉ mới xuất hiện ở miền nam Việt Nam, do
vậy mới thấy được lý do sâu
xa của việc chọn lựa kia. Lý do hội
nghị đưa ra là vì Khổng Tử
có chân đứng trên cả
hai tàu: tàu vật chất khoa
học lẫn tàu tâm linh. Nhưng
lý do sâu xa nằm cả bên
ngoài ý thức của mọi người
thì đó chính
là tính chất Vô vi cao
độ nơi ông, nhờ ông đã
hiện thực được chữ Trống của Đạo Việt
làm cho Nguyên Nho đã
đạt được bốn cái Không (tứ
vô) như Vô vi nay:
Không
chùa chiền miếu mạo.
Không
cầu cúng lễ bái.
Không
hàng tư tế sư ni.
Không
có tổ chức.
Vì
những cái Không này
nên Nho không là
tôn giáo, nhưng lại có
tính cách tâm linh,
nên là triết lý
mà vẫn gây ảnh hưởng kiểu
tôn giáo, tức là một
trường hợp họa hiếm trong dĩ vãng.
Không may chiều kích
tâm linh này các Nho
gia tự Hán về sau đã mất
ý thức, tuy còn sống được
ít nhiều nhưng sống cách
vô thức, chính vì thế
mà đũa thần chỉ huy giàn
hoà tấu đã được hội nghị ưng
trao vào tay Nho, nhưng Nho chưa đủ
sức tiếp nhận vì thiếu sự nhận thức
ra nét đặc trưng của mình.
Nay
Kim Thân Cha xuất hiện cũng trong
chiều hướng lưỡng thê nó,
trần mà không trần, nhưng
được đẩy lên một bậc cao sâu
hơn: một đàng cũng tứ vô:
nên không là tôn
giáo, nhưng lại có
tính chất tôn giáo rất
mực. Vì khi hiểu tôn
giáo là kết hợp với
Chúa, với Thượng Đế thì
khó lòng có đâu
bì kịp với Vô vi, nơi
mà siêu linh hiện thân
sống động, cũng như với phép niệm
Cha, thường niệm, vô biệt niệm, con
người lúc nào cũng cảm thấy
như được nối kết mật thiết với Cha Trời.
Chính vì chỗ này
mà tôi cảm thấy lễ tế
Thiên được phục hoạt và phổ
biến ra trong dân chúng
cách mỹ mãn. Xưa kia
vì là chế độ quân chủ
độc tôn nên việc tế
Thiên dành cho một
mình vua chủ sự thay cho
toàn dân. Nay là thời
dân chủ thì hết mọi người
phải được tế thiên trực tiếp. May
thay qua Pháp lý Vô vi
ta có được cách tế thuận lợi
và thắm thiết vô cùng
đó là việc thường niệm,
vô biệt niệm danh Cha. Nhờ vậy
Pháp lý Vô vi (qua
quyển Chơn Lý) vừa là triết
học và đồng thời rất siêu
linh và đầy ắp tình người.
Xưa rầy triết học hầu hết chỉ là
triết học trừu tượng nằm chình
ình bên ngoài đời
sống, chứ không có minh triết
vốn gắn liền với cuộc đời. Hoặc chỉ
có minh triết kiểu Nho mà
không có triết học đi
kèm, tức không có
phân tích, lý luận,
mạch lạc. Quyển Chơn Lý kiêm
cả hai, vừa lý luận sát
nút mà vẫn đi liền với minh
triết siêu linh, nên cũng
giống Việt Nho “có chân trong
cả hai tàu”. Quyển Chơn Lý
chính là một thứ kiện chứng
cho Việt Nho; nhiều lần Nho còn
được gọi tên ra để được đề cao
cách minh nhiên, đến độ
nhà xuất bản quyển Kinh đã
để mấy lời sau trên đầu sách:
“Kỷ niệm tình huynh đệ xiết chặt
giữa “Minh Đức Nho giáo” và
Pháp lý Vô vi với niềm
tin tưởng tình huynh đệ sẽ nới rộng
thân ái, hòa đồng với
tất cả các giáo phái
tu trên thế gian, thuận theo
Thiên ý (cơ quy nhứt, tam
giáo quy nguyên, ngũ chi hiệp
nhứt)”.
Mấy
câu trên của ngưới ấn tống
quyển Kinh đáng được coi như lời
lưu niệm của một cuộc An hòa
mà loài người đang mong ước
từ trước tới nay nhưng chưa nơi nào
đạt tới, trừ trên mảnh đất Việt Nho
nhưng không được chói chang
như lần này. Đây sẽ là
nền An hòa đầu mối giữa tôn
giáo và triết học. Đây
quả là một hiện tượng lớn lao: xưa
nay tôn giáo vẫn ghét
triết, nhiều triết gia đã bị
tôn giáo sát hại.
Còn triết thì vẫn khinh
tôn giáo, coi như cái
gì đầy mê tín dị đoan
không xứng đáng cho người học
triết để ý... Đến nay Pháp
lý Vô vi xuất hiện như một
chữ Hòa: Pháp là một
thứ tôn giáo đã tiến
đến đợt cao nhất trên đường
tâm linh. Nhìn lại từ
lúc loài người phải
cúng thần bằng thịt người, rồi dần
dần thay bằng thịt thú vật. Sau
cùng như trong đạo Phật mới đạt tới
độ cúng bằng hoa trái. Vậy
đã là cao nhất cho tới nay.
Bây giờ Vô vượt một đợt
là không còn
cúng gì bên
ngoài nữa hết, bàn thờ
Vô vi chỉ còn là đỉnh
đầu: kinh hạt chỉ còn là
danh Cha được thần niệm.
Còn
triết đã vượt lý trí
để vào tâm linh, nên
không còn khô khan trừu
tượng, nhưng là thứ triết đầy ắp
tình người, đồng thời thấu tận minh
triết siêu diệu. Đúng
là có chân trên
cả hai tàu nhưng cách sống
động đầy linh hoạt: quả là xứng
đáng đứng lên nắm lấy đũa chỉ
huy của nhạc trưởng để điều khiển cuộc
hòa tấu giữa Đông Tây,
Kim cổ, giữa khoa học với đạo đức, giữa
triết học với tôn giáo....
Người
ta nói: “tư tưởng hướng dẫn thế
giới”. Vậy mà tư tưởng chính
là triết đó, vì triết
chẳng qua chỉ là tư tưởng thấu
triệt nhưng được hệ thống hóa. Cho
nên đắc thắng trên mặt trận
triết là một cuộc thắng vĩ đại hơn
hết trong văn hóa loài người
vậy.
6.
Những điềm triệu bên ngoài
Đạo
lý đã vậy mà ta
còn thấy nhiều điềm triệu bên
ngoài thí dụ vụ tỵ nạn của
người Việt chúng ta từ năm 1975:
ông Trời coi lơ mơ vậy mà
khôn đáo để, khéo sắp
xếp để tung chiến sĩ khắp nơi. Đã
vậy còn ích kỷ thượng hạng
nữa chứ: tung đi cả ngàn vạn
cán bộ khắp năm châu
mà không chịu bỏ ra lấy một
xu, giá đem điều này
mà trách cứ chắc sẽ được
nghe trả lời: “Cha có xu nào
mà bỏ hở con, con phải biết Cha
Vô vi mà lại, mà
Vô vi cũng là vô xu,
nhưng có vậy mới diệu hữu chứ con.
Con chê Cha là ích kỷ
thì Cha nói thêm Cha
là kẻ đại ích kỷ, có
vậy mới dậy được con biết mậu kỷ.
Vì xưa rầy con toàn nghĩ đến
tha vật chứ có chịu nghĩ đến
cái Kỷ của con đâu để
mà mậu kỷ (mậu kỷ là vun bồi
cho hồn mình nên tốt tươi,
trong Nam đọc mồ kỷ), mà
không mồ kỷ thì làm
sao con trở nên chiến sĩ đắc lực của
Cha. Con có thấy chưa cờ Vô
vi đã bay phất phới khắp nơi rồi
đó mà Cha chưa đủ chiến sĩ.
Sao con không làm chiến sĩ
của Cha và đi tìm thêm
chiến sĩ cho Cha.
- Vâng con sẽ đi
tìm nhưng Cha nói cờ
Vô vi đã bay phất phới
mà cờ ở đâu? Sao con
không thấy? Đã Vô vi
thì làm sao còn
có cờ hở Cha?
- A! Không có
mà có đó con: trong
Không mà Có mới
là Vô vi. Cờ Vô vi đang
tung bay kia kìa con không
thấy sao? Chính là lá
cờ của quốc gia Việt Nam chúng con
đó, cũng mang bộ số 2, 3, 5 như
Vô vi nên cũng gọi được
là cờ Vô vi. Khi con soi hồn
chính là lúc con
kéo cờ Vô vi lên
đó và rồi con cũng
chào cờ, chào cách
trịnh trọng bằng cả hai tay. Ba
ngón tay bịt tai, mắt, trán,
đang khi hai ngón kia bỏ
thõng xuống. Còn số 5
là lúc con làm
pháp luân để khử trược lưu
thanh ngũ tạng của con: con hiểu vậy chưa?
Ngũ tạng là số 5 đó.
- Thưa Cha đúng rồi những
con có thấy bộ ba số này
trong cờ Việt Nam chúng con
đâu?
- Có chứ con, đây
này để Cha chỉ cho: số 3 là
ba gạch đỏ đó, còn số 2 ẩn
trong màu đỏ. Màu đỏ theo
cung ngũ hành chỉ phương Nam số 2,
vậy chả có số 2 là
gì? Số 2 (màu đỏ) chỉ mạch
nhâm mạch đốc đặt trước số 3 chỉ
Tinh, Khí, Thần, thì tức
là lá cờ gồm ba số 2, 3, 5
là cờ của Vô vi cũng
là cờ của chúng con,
nó hàm ý rằng Việt
Nam có nghĩa là vượt đến chỗ
văn minh, vượt đến bến giác chỉ
bằng lửa đỏ quẻ Li ở phương Nam đó.
- Thưa Cha vậy còn số 5?
- Số 5 à? Đó
là màu vàng trung
cung hành Thổ số 5 cũng gọi
là ngũ hoàng cực hay ngũ
phúc. Nếu con người tiến đến được
đúng trung cung (số 5) thì
ngũ phúc sẽ lan tỏa khắp
hoàn cầu mà trong lá
cờ chỉ bằng màu vàng lan ra
khắp hết: Con hiểu vậy chưa? Cho nên
mỗi khi con thấy lá cờ nền
vàng ba sọc đỏ thì con phải
nhớ đấy cũng là cờ Vô vi, đấy
cũng là cờ tiên phong của thế
giới đại đồng và lập tức con phải
niệm hồng danh Cha: thường niệm, vô
biệt niệm. Lá cờ giúp con
nhớ điều này. Vậy con hãy
nhủ lòng rằng: kìa! Cờ
đã phất lên rồi đang tung bay
khắp năm châu bốn bể sao tôi
còn ù lì bê trễ
chưa mạnh dạn hăng say đứng lên
chào cờ, và làm việc
theo mệnh lệnh của cờ...”
Trên
đây là đoạn Việt Nam
tôi mạo muội bắt chước lối văn Bửu
Kinh mà tôi cực kỳ yêu
mến, một quyển kinh có lời văn cao
siêu nhưng lại thân mật
có lúc như dí dỏm.
Nếu đức Di Lạc có nói hay
viết chắc cũng theo lối văn này
nên tôi đánh bạo
nhái chút cho hợp tinh thần
tự An vi tới Vô vi.
Tóm
kết: xét về nội dung ta thấy
Vô vi đã nhiều lần xuất hiện
dưới những hình thái
khác với những danh nghĩa
khác và đã tỏ ra linh
hiệu rất mực, huống chi lần này lại
xuất hiện công khai trực chỉ với
tên Vô vi và đã
tỏ sự hiệu năng kỳ lạ mà nhiều
người tu Vô vi đều được chứng
nghiệm; còn phần Hữu vi thì
việc an bài của Thượng Đế vượt
quá sức tưởng loài người:
chỉ sau khi xảy ra chúng ta mới
thấy phần nào. Thí dụ sứ
mạng được trao cho những con Việt để lo Cơ
Quy Nhất với sự hiện diện của người Việt
khắp năm châu là điều trước
kia không ai dám nghĩ tới.
Một nước nghèo xác sơ lấy
tiền đâu mà tung cả từng vạn
chiến sĩ ra khắp hoàn cầu. Vậy
mà Cha Trời đã làm
rồi đó, không tốn một xu. Như
thế ta chỉ còn biết ngợi khen Cha
Trời chẳng cùng và tận tậm
tận lực thi hành theo sự sắp đặt vi
diệu của Người.
Kính
Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô
Cực Đại Thiên Tôn
PHỤ
TRƯƠNG:
VII. Những
hàm ngụ trong Tây Du
Ký
Tổ Huệ Năng (638-713) kể
là cuộc cải cách cuối
cùng của Phật giáo
trên đất Việt Nho. Tính đến
Vô vi có trên 12 thế kỷ
không thấy còn ghi được cuộc
cải cách nào. Nhưng những
điều cần cải cách thì
còn nhiều như ta đã thấy
trong Vô vi. Trong quãng hơn
một ngàn năm đó có
một cuộc cải cách “ước ao”, hiện
thực bằng tưởng tượng như được ghi lại
trong quyển Tây Du Ký của
Ngô Thừa Ân (1508-1568). Nhưng
cuộc cải cách được nói kiểu
bóng bẩy quá không ai
thấy được. Vậy xin bàn sơ qua ở
đây.
Tây
Du Ký là quyển tiểu thuyết
có chủ đề, lấy việc thầy Huyền
Trang đi Tây Trúc thỉnh Kinh
làm cốt truyện. Đó là
sách châm biếm đạo Phật đến
độ ngạo nghễ, hay muốn nói hoằng
dương đạo Phật như người ta quen
tìm cũng được, nhưng hoằng dương
kiểu khác thường tức dùng
ý niệm Vô vi để đả phá
tất cả những gì hữu vi sắc tướng
trong Phật giáo và
Lão giáo.
Người
ta không thấy thế vì
quá quen với kỷ niệm hiển vinh về
thầy Huyền Trang đi thỉnh kinh, nên
khi đọc truyện Tây Du Ký
đã tin xuôi ngay rằng Tam
Tạng đại biểu cho thầy Huyền Trang,
có ngờ đâu rằng Tam Tạng chỉ
là một nhân vật tiểu thuyết
được Ngô Thừa Ân dựng
nên để đại biểu cho hạng người cực
kỳ hữu vi, hữu vi cách đặc biệt
bằng lối tu tụng kinh mà
không chịu tìm hiểu ý
nghĩa, vì thế mang tên
là Tam Tạng, được giới thiệu
là tu lâu đời nhiều kiếp,
lên đến bậc đệ tử thứ nhì của
Phật, thế mà lúc chuyển kiếp
vẫn còn tỏ ra ngu như bò:
Ngộ Không giết 6 tên cướp
thì om sòm phản đối,
không hiểu được đó chỉ
là biểu tượng của lục căn lục trần,
không giết chết chúng
thì tu (nói bóng
là đi thỉnh kinh) cái nỗi
gì? Quả thực Tam Tạng chưa
đáng xách giầy cho Ngộ
Không, Ngộ Tịnh. Riêng Tam
Tạng đầu óc chứa chật ních
chữ chết khô chứ chẳng ngộ được
cái gì cả, lòng
còn đầy tham, sân, si: mất
ngựa đã khó, mất cái
áo cà sa lại càng
khóc đậm: trằn trọc cả đêm
không ngủ đi được, rồi quay ra
sân hận thả dàn, hơi
tí niệm chú cán
cô làm khổ Ngộ Không.
Vậy mà được làm thầy chẳng
qua nhờ vào cái hữu vi
là quyền đạo ban cho chức tước,
tiêu biểu bằng áo cà
sa và cái vòng xiết
cô biểu thị sự chuyên chế của
hàng tăng lữ. Cái
vòng này do chính
Phật Thích Ca trao cho Quan
Âm, Quan Âm lại trao cho Tam
Tạng rồi Tam Tạng đánh lừa (bằng
bất chính ngôn) để Ngộ
Không đội lên đầu đặng bắt
làm việc như ý mình.
Tại
sao lại có tình trạng trớ
trêu là trò vượt xa
thầy như vậy? Cần xem đường lối tu mới
hiểu được. Cứ xét tội của Tam Tang
phải luân hồi thì biết
đó là tội chểnh mảng bỏ việc
nghe giảng kinh. Câu ấy cho ta biết
lối tu của Tam Tạng ra sao. Đó
là lối tu tụng kinh gõ
mõ chứ không chịu nghe giảng
để thấu hiểu thâm ý sâu
xa của kinh, nó không nằm
trong chữ nghĩa sách vở mà
lại nằm trong chính tâm
mình. Vì không theo
như vậy nên bị luân hồi để
làm một việc ngược hẳn với tụng
kinh là đi thỉnh kinh vô tự.
Tụng những ba tạng kinh gồm trên 15
vạn quyển với cả hàng nhiều trăm
triệu chữ, vậy mà bây giờ
còn bắt đi thỉnh Kinh sao? Tại
đâu lại có sự trái
ngược như vậy? Thưa vì đây
là bí quyết của sự
thành công của việc tu luyện
đích thực nó ở tại phải đi
vào đến chỗ chân không
mới đạt diệu hữu. Hãy coi gương Ngộ
Không tuy là cốt khỉ nhưng
nhờ lối tu Vô vi, truyện gọi
là “ngộ được tạo không”
nên quyền phép trí lự
vượt xa Tam Tạng cả ngàn lần, nếu
đo bằng mức đi nhanh thì phải
nói cả triệu lần. Đường đi
Tây phương Ngộ Không đi về một
ngày được 50 lần, hai trò
kia phải mất 10 ngày, còn
Tam Tạng đi cả ngàn kiếp chưa chắc
tới, tức kém Ngộ Không đến
triệu lần.
Ấy
chỉ vì Ngộ Không đã
học được bộ cơ cấu của Việt Nho là
ngũ hành. Vì cái học
của Ngộ Không ở mãi đợt 5
bên trên 4 bậc kia là:
Chữ
thuật: biết nói tiên tri
Chữ
lưu: biết kinh sách (lối tu của Tam
Tạng)
Chữ
kinh: biết tọa thiền
Chữ
động: biết hành thiền
Vô
tự vô ngôn, tức thầy
không nói nữa, mà chỉ
gõ đầu Ngộ Không 3 cái
rồi chắp 2 tay sau lưng đi vào
phòng đóng cửa lại.
Đó là phảng phất lối tu
tâm đạo nhưng bí truyền rồi
thất truyền nên người sau
không biết cách xếp đặt ra
sao: có phải soi hồn chỉ bằng
gõ lên đầu 3 cái
chăng? Chỉ biết rằng nó không
ra ngoài bộ cơ cấu vài ba
(gõ 3 cái chắp 2 tay lưng:
nhớ Ngũ Tổ Hoằng Nhân đến xem Huệ
Năng đang giã gạo cũng gõ
vào cối 3 cái rồi bỏ đi).
Nhờ bộ cơ cấu 3-2 trong tâm
pháp bí truyền đó
mà Ngộ Không sau này
mới đủ khả năng dẫn phái
đoàn đi thỉnh Kinh, và cuối
cùng đã thành
công đạt được Kinh Vô
tự, có nghĩa là ngộ
được đạo Không. Nhờ đó
mà cả nhóm được thăng tiến.
Tam
Tạng được thăng chức “chiến đàn
công đức Phật” với lời khen “thậm
hữu công quả” vì đã
thỉnh được chân kinh.
Ngộ
Không được thăng chức “chiến đấu
thắng Phật” với lời khen biết “ẩn
ác dương thiên” và
nhất là “toàn chung
toàn thuỷ”. Đọc qua ai cũng thấy
Tam Tạng quả vị thấp hơn Ngộ Không
nhiều lắm. Vì “thậm hữu công”
là thỉnh được Chân Kinh.
Mà thực tế thì hỏi ai
có công trong việc này
nhiều hơn nếu không là Ngộ
Không.
Chí
như quả vị Ngộ Không thì
trung thực không ai tranh vào
đấy được, tức đã vượt công
quả để tiến đến những cái tế nhị
thuộc “công trình” khó
hơn nhiều, như “ẩn ác dương thiện”
và nhất là “toàn
chung toàn thuỷ”= khởi đầu
đã trọn mà kết quả cũng
trọn.
Để
hiểu được cái khó khăn ở chỗ
này ta nên nhớ lại 4 bước
chân tu là định, tĩnh, an,
lự. Phần đông tu được 2 bước đầu
tưởng là đã hết rồi ở
lì lại đó mà
không dám tiến lên bước
thứ 3 là an, thứ 4 là lự.
Nói
khác phải tu 2 bước đầu cho thấu
triệt: định phải đuợc vững chắc mà
tĩnh cũng phải trọn vẹn thì mới ngộ
được Chân Không. Nếu
không định tĩnh trọn hảo thì
chỉ đạt cái không tiêu
cực tức là không có
gì hết phải định tĩnh triệt
cùng mới đạt Chân
Không, mà có
Chân Không mới đạt Diệu Hữu
là các cấp tiến cao hơn như
Tề Thiên. Thường nhiều người ngưng ở
2 đợt đầu là chỉ yêu
có thanh, không dám
tiến thêm để biết trược. Tưởng
là đã biết trược rồi
mà không phải. Vì mới
biết trược từ trược, chưa biết trược từ
thanh. Vì lầm thế mà ngừng
lại, nên có thuỷ mà
không có chung. Muốn
có thêm chung thì phải
bước thêm 2 bước An Lự: “phải
chiến thắng tư tưởng lìa trược để
yêu trược, muốn đi xuống trược để
biết trược trở lại” (Chơn
Lý). Tôn Ngộ Không
đã được chức Phật chiến thắng
vì đã dám chọn học 72
phép địa sát là học
trược từ thanh. Thanh là đã
Ngộ Không, bây giờ học trược
để thể hiện tinh thần Di Lạc an vui
là tinh thần của những vị đã
đi hết định tĩnh bắt đầu đi xuống để an
lự.
Tam
Tạng có công thỉnh được Kinh
Vô tự. Bây giờ nếu khéo
tu theo Kinh Vô tự để Ngộ được
Không, thì có
ngày sẽ lên được chức
Tôn Ngộ Không, rồi trải qua
những giai đoạn học 72 phép địa
sát với những thăng trầm của
nó, lúc ấy và chỉ
lúc ấy thôi mới đạt chức
“chiến đấu thắng Phật” và mới
có toàn thủy mà cũng
kiêm cả toàn chung. Chứ hiện
nay với chức “đàn công đức
Phật” thì làm sao có
được hai chữ ‘toàn chung’. Chưa
toàn chung, mà cũng chưa cả
toàn thuỷ. Chân đã
lìa đất mà đầu chưa đội được
trời. Còn lơ lửng giữa không
trung: trầm không u tịch kiểu duy
thức vậy thôi.
VIII. Từ
đốc hành đến hoá nhi đa
hí lộng
1.
Age Quod Agis
“Hãy
làm cái mày đang
làm”. Đó là khẩu hiệu
mà nhiều Đại học trung cổ Âu
Châu áp dụng bằng cho một
người cầm gậy đi quanh lớp lâu
lâu nói lên câu
đó để giúp thính giả
chú tâm vào đề
tài. Việc đó tỏ rõ
tầm quan trọng cực kỳ của sự tập trung
tâm ý. Vì quả thật
nó là mấu chốt cho
các việc vĩ đại. Vĩ nhân
là người có khả năng dồn
trọn chú ý vào
công việc đang làm. Vì
vậy mà Việt Nho nói: “Quân
tử vô sở bất dụng kỳ cực” =
người quân tử không làm
cái chi mà không
làm đến chỗ cùng kỳ cực của
nó. Cứ xem việc học thì đủ
rồi: để thi hành khẩu hiệu
“cùng kỳ cực” Trung Dung đưa ra đến
năm bước là: bác học, quảng
vấn, thận tư, minh biện và đốc
hành. (T.D.20)
Đốc
hành là đợt cuối
cùng, Đốc đây là để cả
tâm trí nghị lực vào
việc, không cái gì
không được đưa vào. Triết
lý An vi muốn cho đốc hành
đạt độ cùng cực trên mọi mặt
nên đặt việc lý tưởng
lên đợt an hành bên
trên lợi hành và cưỡng
hành. Vì cưỡng hành
là làm vì sợ (sợ trời
đánh thánh vật), lợi
hành làm vì lợi
vì danh, những động lực đó
đều ở bên ngoài nên
làm giảm bớt sự chú
tâm vào việc. Vì thế
phải là an hành không
chú tâm vào đối tượng
vào mục tiêu nữa mà
dồn mọi năng lực vào chính
việc đang làm để trong một
lúc chỉ làm một việc.
Vậy
theo Việt Nho thì việc nào
đáng làm hơn hết? Thưa
đó là tu thân. Bởi
Việt Nho đã định nghĩa con người
là tác nhân, tức bản
tính nó làm bằng tự
tác hành, nên việc
nào giàu tính chất tự
tác tự hành hơn hết
thì đó chính
là việc triển diễn bản tính
của nó hơn cả, nên
đáng làm cách
chú tâm hơn hết. Mà
cách chú tâm hơn hết
thì không bằng tu, vì
tu là việc đầy công phu
mà lại không nhằm lợi lộc
gì trước mắt, chính
vì thế mà nó
giàu chất tự động nên đầy khả
năng triển diễn bản tính người.
Việt Nho đã đưa ra một nguyên
lý mà giới Nho học Tây
Âu cho là kỳ diệu:
nguyên lý đó là
hết thảy mọi người tự vua tới dân
đều phải lấy việc tu thân làm
bản gốc: “tự thiên tử dĩ
chí ư thứ dân: nhất thị
giai dĩ tu thân vi bản” (Đại
học câu 1).
Đó
là về mặt Việt Nho, còn khi
xét về Vô vi thì Việt
Nho cũng đã hiện thực 4 bước
trên: là đọc các
sách cần thiết, hỏi han kỹ lưỡng từ
ông Tám trở xuống, rồi suy
nghĩ đối chiếu sâu rộng, đoạn
phân tích tỉ mỉ và
thấy đó là lối tu rất
đáng thi hành. Vậy bây
giờ còn lại bước cuối cùng
là làm, mà đã
làm thì phải đốc
hành, phải an vi, tức phải
làm đến cùng kỳ cực: cho hợp
câu “quân tử vô sở
bất dụng kỳ cực”.
Vậy
đó cũng là cung cách
cả Vô vi. Vì Vô vi nay
không như vô vi xưa
chuyên có mặt thanh mà
lánh mặt trược, còn Vô
vi mới y như An vi, bao cả thanh lẫn
trược. An vi không tị thế
không lìa đời mà
là xử thế. Vô vi nay cũng
vậy: đêm công phu ngày
công quả công trình,
nên chấp nhận câu của Việt
Nho:
Thứ
nhất là tu tại gia,
Thứ
nhì tu chợ,
Thứ
ba (mới đến) tu chùa.
Ông
Tư, ông Tám đều có vợ
con, gia đình, vậy mà cứ để
cả mảng thế mà tu, quả là
giống với An vi, bao gồm cả trong lẫn
ngoài, cả nội thánh lẫn
ngoại vương. Đấy là xét về
phạm vi tác hành.
Xét
đến cung cách hành động cũng
lại giống như An vi là đưa
tác hành lên bậc bản
tính con người như trên
đã nói về mấy phương
trình căn bản của Vô vi, xin
nhắc lại trong bảng sau đây:
Người
= hồn
Hồn =
điển
Điển
= tự tác
Tự
tác = tiến hóa
Tiến
hóa = tu
Phương
trình thứ nhất “người là
hồn” của Vô vi hơi mạnh, coi như bỏ
xác, nhưng thực sự chỉ có
ý nhấn mạnh đừng lẫn hồn với
xác, hồn mới là
chính, mới là chơn nhơn chứ
xác thân chỉ là tạm bợ
nay còn mai mất.
Phương
trình 2 hồn là điển,
đây là câu định nghĩa
mới mà hợp thời và đã
có hàm tàng trong
Việt Nho với câu định nghĩa “người
là thiên địa chi đức,
âm dương chi tu khí”.
Chữ đức, và nhất là chữ “tú
khí” (cái khí
thanh của âm dương) quả là
nền móng cho định nghĩa người
là điển (hoặc linh quang cũng thế,
vì quang là một hình
thể của điển) tức nói lên
cái gốc rễ của nó là
một khối linh quang cực kỳ mãnh
liệt vô biên.
Phương
trình ba: điển là tự động,
tự tác vì điển là
năng lực cường mạnh nhất trong vũ trụ,
nó chỉ có máy động
các cái khác chứ
nó không thèm cậy ai
đẩy nó. Không có điển
các máy móc liền nằm
ụ: hễ có điển là mọi
cái đồng thời sống, động,
sáng, nóng... Cho nên
định nghĩa Thượng Đế là khối đại
linh quang quá đúng cũng như
nói hồn là tiểu linh quang
chiết ra từ đại khối linh quang cũng
là biểu lộ hết tính chất tự
chủ của con người, vì thế mà
có phương trình điển
là tự tác, hoặc nói
tự động là tự tác
cùng tột không để chỗ
nào hở.
Phương
trình 4: tự tác là
tiến hóa. Thoạt xem hơi khó
hiểu nhưng xin nhớ lại lời Bửu Kinh: con
người là hồn (tiểu linh quang)
xuống trần để học tiến hóa. Theo
câu đó thì mục
tiêu của hồn đã rõ
là tiến hóa tức là
trở về với cội nguồn cực thanh tịnh của
nó. Hồn ví như quả
bóng đã được vất xuống thế
tất phải bật lên. Vì bản
tính của bóng da khi
ném xuống là phải nảy
lên trở lại trạng thái
nguyên thuỷ của mình.
Đó là hình ảnh soi
sáng cho quan niệm coi hồn
là điển, nên tiến hóa
là bản tính của nó,
bản tính nó là
tìm cách xuyên qua mọi
trở ngại để về chỗ tự đó nó
được ném xuống.
Phương
trình 5: tiến hóa là
tu, nói rộng muốn tiến hóa
phải tu, tức phải có tác
động đầy nhân tính là
tự động, tự tác như đã
bày tỏ ở phương trình ba.
Nói vậy cũng như nói tu
chính là bản tính của
người. Con người muốn nên người
thì phải lấy tu thân
làm bản gốc: “tự thiên tử
dĩ chí ư thứ dân, nhất thị
giai dĩ tu thân vi bản”. Do
đấy hiểu được tại sao cái tội nặng
nhất trong An vi cũng như Vô vi
là lười biếng và công
ty của nó là giải
đãi, ù lì, bê
trễ, ỷ lại... không chịu tu hay tu
không tinh tấn. Như vậy không
tu là không chịu làm
người, là giảm bớt nhân
tính tức giảm bớt tính tự
động, tự cường, tự lực, cương nghị, tinh
tấn, nói vắn tắt là ý
chí tự động đóng vai
trò quyết định trong việc tu. Cũng
chính vì thế mà
Vô vi không cho cầu xin sự
phò hộ, trong lời niệm chỉ xin
Thượng Đế chứng giám cho
mình tu đắc đạo, chứ không
xin phò hộ sợ sinh tính ỷ
lại. Thực ra xin phò hộ không
phải là xấu, nhưng chỉ hợp cho
những trình độ khởi đầu, còn
khi đã tiến cao, đến đoạn
chót thì phải tự lực tự
cường để giống với Cha Trời là đấng
tự thể tính trọn vẹn.
Tóm
lại tu là tiến hóa,
vì tu gồm đủ các đức
tính của năm phương trình
trên, nhất là tự động, nghĩa
là không để chút sinh
lực nào mà không được
dùng đến. Câu trên coi
như nghịch với tu cần tĩnh lặng
cùng cực, nhưng thực ra không
nghịch vì nó chỉ có
ý tĩnh lặng đối với trần trược,
không cho trần trược phá rối
hoặc ăn bớt đi chút sinh lực
nào để có thể dốc trọn vẹn
vào việc tu, coi đó
là việc đi lên đặng về tới
nguồn của nó, y như bản tính
nước là chảy xuống thì bản
tính hồn là đi lên.
Không đi lên, nếu ít
thì là giảm bớt hồn,
còn không đi lên hẳn
là mất bản tính, gọi
là mất nhân tính, hồn
tan vào cỏ cây.
Xem
thế đủ biết việc tu quan trọng dường
nào mà chủ chốt trong việc
này là ý chí:
ý chí phải tỉnh thức
luôn, chỉ nghiêng đi một
chút là dễ gây tai
hại. Vì cuộc đời ví được với
cuộc kéo cóc: bên
trược bên thanh. Nói chi tiết
hơn thì bên trược kéo
xuống có hai đại diện là
danh và lợi. Bên thanh
kéo lên cũng có hai
là trí và nhân
tức yêu thương và sáng
suốt. Hai bên ngang phiếu chỉ
còn ý chí, hễ
bên nào kéo được
ý chí về mình
là có nhiều chiều nắm phần
thắng. Thế mà ý chí
thì chuyên môn
lè phè, thực ra đi lên
thì muốn chứ, nhưng phải cố gắng
lắm mới rút ra khỏi những mời mọc
của phe trần cấu, nó ve vãn,
khuyên lơn, nó quyến rũ,
đút lót đủ thứ. Chính
vì chỗ ý chí cứ lơ mơ
thay đổi bấp bênh nên tu trở
thành họa hiếm và trong số
họa hiếm đã dứt khoát tu
thì nhiều trường hợp còn tu
hú nghĩa là tu mà
không tu. Vì thế cần phải
xét tới công hiệu của sự tu
để thấy rõ chỗ lợi hại.
2.
Tu là hạnh phúc, Trần
là điêu linh
Ta thường nghe nói:
“Tu
là cõi phúc,
Tình là giây oan.”
Nhưng
câu này có nghĩa hẹp:
cõi phúc thường hiểu
liên quan đến chùa chiền hoặc
dòng tu nào. Còn
tình hiểu là kết hôn
lập gia đình được coi là đối
chọi với việc tu, cho nên cái
nghĩa nó hẹp lại không thể
đúng vào việc “tu
thân vi bản” của Việt Nho hay
“phước huệ song tu” của Vô
vi. Vì thế xin đưa ra câu
có tầm mức phổ biến trên: “tu
là hạnh phúc, trần
là điêu linh”
Hãy
xét vế sau: “trần là
điêu linh”. Xin nhắc lại quan niệm
Vô vi về nguồn cội con người
là “tiểu linh quang tách
khỏi đại khối linh quang xuống trần để
học bài tiến hóa”.
Nói thế có nghĩa là
hồn cần rất nhiều bài học từ trược
tới thanh, mà hễ trược là
đau khổ: trước hết là thân
xác: “Hữu thân hữu khổ”,
vì có thân xác
tất phải có ăn, mặc, ở, đi lại
là những cái chứa nhiều đau
khổ, cũng như trải qua sinh, bệnh,
lão, tử... nhà Phật gọi
đó là tứ khổ, bát
khổ, v.v... Cho nên người ta gọi
thân xác là của nợ
quá đúng. Thế mà
đã xong cho đâu còn
tai nạn thiên nhiên: mưa nắng,
bão lụt... và nhất là
tha nhân. Có triết gia đồng
hóa với hỏa ngục: “tha nhân
là hỏa ngục”. Câu này
quá đáng nên xin sửa
lại: 1/3 tha nhân là hỏa
ngục, vậy cũng nghẹt thở rồi. Huống chi
còn cái vụ nghiệp nữa:
nghiệp riêng đã vậy
còn cả nghiệp chung làm cho
đường đời đầy điêu đứng cam go. Thế
mà con người có chút
giác thức để dò đường
thì lại bị trược hóa hầu
trọn, nên nhà Phật gọi
là vô minh.
Còn
ý chí thì bị
lôi kéo quá
thành ra yếu xìu. Quả thực
đời là bể khổ, là cảnh trầm
luân, là điêu linh đủ
thứ. Cho nên suy nghĩ về đời nhiều
người quay ra trách trời
trách đất tại sao lại dựng
nên mình? Có triết gia
trách cha mẹ lúc sinh ra
chẳng hỏi ý kiến mình xem
mình có ưng ra đời
chăng?...Thiệt cả là một lũ
cù lần hạng nặng. Con người thực tế
sẽ không trách than như vậy
vì vô ích, đàng
nào cũng hiện diện thù
lù ở đây rồi, có
mà trời trốn. Thôi chỉ
còn có phép
thoát khỏi cõi trần ai
này mà thôi.
Làm thế nào đây? Người
đời đã thử đủ mọi cách cả
danh lợi, chức trọng quyền cao, kể cả tự
tử nữa. Nhưng tất cả đều kết cục bằng hư
vô, tất cả đều là ngõ
cụt. Cuối cùng chỉ còn một
lối là tu, không còn
lối nào khác, nhưng được
cái may là lối này
vừa hòa giải được đau khổ lại vừa
đưa đến phúc lạc vô
cùng.
Tại
sao lại được như thế? Hãy nhớ lại
các câu định nghĩa người bằng
năng động tính, tức cũng là
tự tác hành, tự tiến
hóa. Cho nên tiến hóa
không phải là thể tính
phụ thuộc của con người, tức con người
muốn tiến thì tiến, muốn tà
tà ở lì lại tuỳ ý.
Trái lại nó phải tiến
vì bản tính nó
đòi như vậy, y như gió phải
thổi mới còn là gió
thế nào thì người cũng phải
tu tiến mới còn là người thế
ấy. Vì vậy hễ đã sinh ra
là người thì phải tiến: tiến
hóa trở thành bó buộc
tự trong bản chất. Đúng hơn tiến
hóa là bản tính của
con người mà cái gì
làm theo bản tính là
gây hạnh phúc, vì hạnh
phúc là sự cảm nghiệm sung
sướng trong việc đáp ứng nhu yếu
thâm sâu của bản tính
mình. Nếu bản tính là
tiến hóa thì hễ tiến
hóa là đặng phúc.
Và vì tu là tiến
hóa nên tu là hạnh
phúc, bởi thế mới nói tu
là cõi phúc.
Còn không tu thì tất
nhiên là nguồn mọi đau khổ.
Vì không tu tiến thì
đã có luật nhân quả
lôi đi, bị lôi đi thì ở
trong thế thụ đặng. Hình
thái thụ động là đau khổ,
thụ động nhiều, đau khổ dữ. Đau khổ ai
cũng sợ vậy sao không chịu tu tiến.
Thưa vì trong con nguời có
ù lì tính do phần
trược khí của xác thân
gọi là lục căn lục trần,
chúng họp nhau vừa níu hồn
xuống, lại còn che lấp cái
minh đức trong con người làm cho
nó trở nên u mê
thêm, không thấy được diễm
phúc của cõi trên
nên càng dễ bị sa đọa
vào lạc thú của cõi
hồng trần: đó gọi là si
mê. Si, mê, lười... tất cả đều
trì kéo hồn lại nên
phải có luật nhân quả
thúc đẩy đi lên như ngựa
kéo xe, không chịu kéo
thì roi vào đít.
Đó là nguồn gốc đau khổ. Vậy
muốn hết khổ thì phải tu.
Ta
có thể phân tích điều
kiện như sau: không tu là
nguồn mọi đau khổ, nhưng tu thì
là việc cực kỳ cam go y như người
trèo núi: phải khó
nhọc mới đi lên được. Như vậy ta
có thể quan niệm đau khổ
chính là sự khó nhọc
dồn cục, do sự tích luỹ các
lần không tu, mà không
tu là do ù lì, si
mê nên có thể
nói khổ đau là sự dồn cục
các cái ù lì,
sái bậy, si mê rồi chịu thua,
vậy là đau khổ thêm. Nay muốn
tránh đau khổ chỉ còn
cách chia nhỏ sự khó nhọc ra
không cho nó dồn cục lại,
phương pháp chia nhỏ đau khổ
là tu. Tu chính là
chia nhỏ đau khổ ra mà tiêu
thụ ít ít một, vì tu
quả là một việc khó nhọc
nhất trong các việc con người phải
làm. Trước hết vì là
việc không có động lực ngoại
tại tức không có lợi nhuận
vật chất nào cả, đã vậy lại
không được có đối tượng hữu
hình: phải nhắm cả mắt, bịt cả tai,
đã nhắm mắt còn phải
“nhìn” vào cõi
không, thở ra hít vào
cũng là hít cái
không nốt. Làm việc
trên cái có, tức
có đối tương thì tương đối
dễ chứ làm việc trên
cái không, không
có đối tượng nó khó
hơn nhiều, nên xưa nay biết bao
người ham nói về Vô vi thế
mà đến lúc làm lại
đầy hữu vi sắc tướng. Điều đó
nói lên sự cam go vô kể
khi phải làm việc trên những
cái không.
Đã
vậy lại còn không được
có động, phải ngồi im. Rồi nữa tối
đến đã chả được dục thì chớ,
nửa đêm ngủ đang ngon giấc lại phải
lồm cồm bò dậy, ngồi đó cả
tiếng đồng hồ còn chê
là ít, ấy là chưa kể
còn chuyện ăn lạt, xa lánh
những chỗ phồn hoa vui nhộn. Ôi! Quả
là một cuộc khổ nạn, người ta nối
khổ vào với tu thành “khổ
tu” quả là đúng: phải can
đảm lắm mới dám khởi công tu,
can đảm hơn cả người xông pha chiến
trường; ở chiến trường là chiến
thắng quân địch, có đối tượng
hẳn hoi; ở đây chiến thắng
chính mình, dễ nương tay
lắm. Vì thế mà thắng
mình khó hơn thắng người
vô kể. Tóm lại tu
chính là chia cái khổ
ra để tiêu thụ dần dần, không
cho nó dồn cục lại để trở
thành đau khổ.
Vậy
còn nói tu là
cõi phúc đúng chăng?
Thưa đúng lắm: đúng ở chỗ
nó hóa giải đau khổ bằng chẻ
nhỏ ra để tiêu thụ mỗi ngày
một chút, nên cuối
cùng kể là sướng, sướng
vì không phải chịu đau khổ
đã vậy mà hồn còn
được đưa lên cõi trên
đầy phúc lạc. Nói tu
là khổ chỉ đúng lúc
đầu, đến khi đã đắc phần nào
thí dụ mở được huệ nhãn
thì lúc ấy tu lại trở
thành cuộc vui bất tận, phải
nói đời có tu là một
cuộc hí lộng chẳng cùng.
Có
thể nhận xét rằng nhiều người tu
lại gặp đau khổ hơn người không tu,
đến nỗi có nhiều người đâm ra
sợ không dám tu, nhiều người
chịu rằng tu là tiến cao:
làm thành thần tiên
phật chi đó, nhưng trước hết phải
đau khổ đã, thế là có
màn “em chả”, rồi bằng lòng
ở lì lại hiện trạng tà
tà cho nó khoẻ, cần chi cố
gắng quá rách quần. Thưa
rằng đó không là
trường hợp thường xuyên tức hễ tu
thì khổ hơn, mà chỉ
là một số trường hợp, nhưng khi xem
rộng thì lại thấy là
ân huệ do tu mà ra, tức nhờ
tu mà thời gian đau khổ được
rút ngắn để được giải thoát
sớm. Vì con người không ai
là không có tiền
khiên, đã có tiền
khiên thì bó buộc phải
trả quả, sớm muộn gì cũng phải trả
cho xong, không thoát
đâu được. Nếu không tu
thì trả đầy đủ nên phải trả
rất lâu, nói theo nhà
Phật là trả trong nhiều kiếp, nhưng
có tu thì sẽ được giải
thoát sớm hơn nhiều, vì khi
tu thì nghiệp quả được giảm nhẹ hẳn
đi nên tu cũng gọi là giải
nghiệp. Nghiệp được rút nhẹ
thì có thể trả mau hơn để
đạt thoát giải sớm hơn. Do
đó thay vì phải trả quả
trong nhiều tiền kiếp thí dụ,
thì nay dồn cả vào một kiếp
để đến được giải thoát liền.
Đó là ân huệ lớn lao
do tự tu. Vì thiếu huệ nhãn
không nhìn ra ân huệ nọ
mới tưởng tu là căn nguyên
của đau khổ mà không ngờ rằng
tu là giải nghiệp. Nếu có
đau khổ coi như nhiều hơn lúc chưa
tu là tại đem cái khối khổ
của bao kiếp ra tiêu thụ ngay trong
một kiếp, nên tưởng là nhiều
mà kỳ thực là ít.
Ta
có thể hỏi rút vắn như vậy
có trái luật nhân quả
chăng? Thưa không, khi tu thì
nghiệp quả được rút nhẹ mà
không trái luật nhân
quả: chẳng qua vì sự đổi chủ
nhà: chủ trước là xác
thân, chủ sau là hồn, hay
nói rộng là lúc chưa
tu thì lục căn lục trần đè
đầu cưỡi cổ hồn để nó làm
chủ, hồn là nô. Nhờ cuộc tu
mà hồn khôi phục lại được
quyền làm chủ nhân ông
trong bản thể, nên ngay đến
lúc phải chịu trả nghiệp thì
tội quy vu trưởng. Trưởng mới là
hồn chứ không còn là
xác như trước. Xác
thân chịu trả quả thì đau đớn
hơn hồn vô kể. Thí dụ anh Ất
đã giết người tất sẽ bị giết để trả
quả, nhưng nay anh quyết tâm tu
nên thay vì xác anh
phải chết thì nay hồn anh phải
lãnh những hồn không chết
được nên thay vì chết anh chỉ
bị uể oải ít ngày. Tại sao
vậy? Thưa là tại tội quy vu trưởng.
Lúc chưa tu chủ nhân
là xác nhân nay anh
đã tu thì hồn làm chủ
nên khi quả báo tới
thì chủ nhân mới ra
lãnh nhận. Như vậy xét cho
cùng tu bao giờ cũng lợi hơn rất
nhiều, ấy mới là xét
có mặt tiêu cực là
tránh được đau khổ, chứ nếu kể tới
mặt tích cực thì tu quả
là cõi phúc.
Chính
vì lý do nọ nên đau
khổ có khả năng kích
thích linh hồn làm cho
nó thức giác được sự cần
phải tu. Cũng như thức giác được
rằng những lạc thú trần gian
không đáng giá nhiều
như lúc chưa tu tưởng nghĩ. Do
đó đau khổ làm cho sự
trì kéo bớt hẳn đi. Mỗi trận
đau đớn là mỗi trận làm cho
hồn cảm thấy thanh nhẹ nhiều hơn là
do vậy. Đau khổ ví như những
nhát dao chặt bớt những tay tuộc
của cõi hồng trần giơ ra lôi
cổ hồn ở lì lại, còn đau đớn
là những nhát dao chặt bớt
những mối giây chằng chuộc linh hồn:
như vậy đau khổ cũng là tiến: tiến
bằng bị thúc đẩy, thúc đẩy
bằng đau khổ. Đau khổ làm cho tiến.
Nhưng không thể tiến mạnh bằng tu,
vì đau khổ ở thế thụ động: thiếu
chất tự động, giàu chất cưỡng
ép nên không nhiều năng
lực bằng tu. Tu là tự động
nên là tác động đầy
chất người, mà tiến nhiều hay
ít là do chất người nhiều
hay ít.
Tóm
lại con người đã sinh ra ở đời
là phải gặp đau khổ bởi nhiều
nguyên do: xác thân,
xã hội, thiên nhiên lại
còn ù lì, si
mê... không thể không
gây đau khổ, nhưng đau khổ lại
là những bài học cần thiết
để tiến hóa. Hễ tự tu tự tiến
thì hóa giải được nhiều đau
khổ, còn không thì
đã có luật nhân quả
lôi cổ đi, mà lôi đi
là bị đau khổ. Đau khổ tuy
làm cho tiến hóa nhưng
vì là lối cưỡng hành
nên chậm hơn, tốn kém hơn
(tốn kém trả bằng đau khổ). Đấy mới
là xét về đời sống cá
nhân. Bây giờ xét về
toàn thể đời sống. Hỏi rằng đời
sống có đáng sống
không, có ý nghĩa chi
chăng?
3.
Đời sống nôn mửa?
Đời
là bể khổ, vô ý nghĩa.
Tôi chẳng biết tại sao tôi lại
sinh ra giữa khổ ải: sinh, lão,
bệnh, tử, lại còn làm khổ
nhau một mẻ nữa thế rồi chết, chả ai hiểu
ra sao cả. Nghĩ mà oán
cái ông Trời, đang yên
lành trong cái hư vô
thì lôi ngay mình ra
cõi hiện hữu, rồi bắt truân
chuyên trả quả. Vay bao giờ
mà bắt tôi trả vậy hở
ông? Giá như Ông cứ để
nguyên tôi trong cõi hư
vô thì làm chi
có vụ vay để rồi đòi nợ,
“tout notre mal c’est d’avoir
existé”: tất cả đau khổ của ta
là tại đã có,
mà có ra đây chỉ tại
cái ông Trời. Ông Trời
xưng mình là hư không
mà không biết hư không,
còn rắc rối học làm
có. Có, có,
có. Cha đời cái có!
Tất
cả những lời trên đại diện cho
vô số những lời than trách
trời đất, chửi đời sống không
đáng sống. Có đáng
tin không? Thưa rằng hầu hết
là nói láo, chỉ việc
quan sát thực tế đủ hiểu. Hỏi rằng
trong các người đang sống có
bao nhiêu người viết như thế, chưa
chừng chỉ dăm ba mạng trong cả triệu
người. Rồi nữa trong những kẻ viết thế
được mấy trự tin như mình viết?
Không chắc có đến dăm ba phần
trăm chăng. Còn phần lớn cũng như
tối đại quần chúng vẫn ôm
cái sống, rút ra chẳng được,
hình phạt xử tử vẫn cho là
khốn nạn. Như vậy đời đáng sống chứ
còn gì. Cho nên viết
chê đời chỉ là làm văn
chương chứ có thật đâu.
Nhiều
tay chẳng hạn còn tuyên bố
trước là hổng thèm lên
thiên đàng, nhất định ở
lì lại trần gian để hưởng cho tận
hết những “của nuôi trần thế”:
“nourritures terrestres”. Có
ông nói nếu được làm
Thượng Đế thì ông sẽ dựng
nên những đàn ông rất
sung sức, những đàn bà rất
đẹp rồi, ông từ chức Thượng Đế để
xuống làm người. Nhiều người
không tuyên bố vậy nhưng
quá 99% ôm đời kinh khủng,
rứt cũng chẳng ra. Như vậy chứng tỏ đời
đáng sống lắm chứ. Không
đáng sống sao tối đại đa số
ôm ghì đời như kia, giục
giã tu mà có được mấy
ai theo đâu, ấy là tu mới bỏ
có chút xíu à.
Vậy thì đời quả đáng sống
mặc dầu đau khổ tràn đầy và
không thể tránh được như
đã phân tích ở
trên, tuy nhiên con người vẫn
bám dính vào đời
sống, bám đến độ làm cho đời
thêm đau khổ hơn nhiều. Sở dĩ người
ta ham sống là quả đời đáng
sống, và dù đau khổ
muôn vàn nhưng cũng được
hưởng nhiều lắm, là vì
đã có tu cả rồi, ít
hay nhiều, tự tu hay bị tu, cũng đều
là tu cả, chẳng một ai chưa tu.
Vì thế mà có được
hưởng. Nếu vậy có tu đàng
hoàng thì đời sẽ là
một cuộc vũ tươi vui như hình tạc
trên mặt Trống Đồng.
4.
Đời là cuộc ca vũ
Quả
đời là một cuộc vũ nhưng phải biết
lối đi đúng như trên
đã nói: đời là cuộc
sống hai mặt, biết tu thì sướng,
không tu thì khổ. Bao
nhiêu những lời chê cuộc đời
cũng đúng nhưng tại sao người ta
không tự tử là vì
còn cảm thấy lờ mờ rằng có
lối thoát và người ta
tìm đủ thứ như tích luỹ của
cải, quyền thế, danh vọng, nhưng đấy
toàn là những hướng
không có lối thông.
Muốn thông thì phải đi ngược
hẳn lối đời.
Muốn
tỏa rồng thì phải bóp
vào.
Muốn
tới thì phải lui.
Muốn
bắt thì phải buông xả.
Đường
lối ngược đời đó gọi là tu.
Đó là con đường trung thực
nhất để đưa đến chỗ coi đời là cuộc
ca vũ, là cuộc chơi đầy hoan lạc.
Để bạn thấy điều đó cách
thực tế thì hôm nào
mát mình mời bạn đi thăm một
thiền đường sẽ thấy khuôn mặt rạng
rỡ yêu đời, vui sống. Bạn hãy
gặp riêng một vài người
đã tu Vô vi vài ba năm
mà hỏi chuyện thì hầu chắc
bạn sẽ được nghe người đó
nói với bạn rằng trong đời họ, họ
nghĩ không thể gặp ân huệ
nào to lớn hơn, quý trọng
hơn là được biết phép tu
này. Bạn sẽ nghe kể về một
đôi người tu đã tự ý
từ bỏ cả những công cuộc kinh doanh
đang đem lại nhiều tiền bạc để được
xóng lòng hơn mà dồn
tâm trí vào việc tu.
Tại
đâu? Thưa là vì họ
đã hé nhìn thấy
cõi hư linh đầy ơn phúc
khiến những của cải đời này bỗng
trở nên nhẹ như mây
trôi, không còn đủ sức
trì kéo họ như trước.
Lòng họ nghiêng hẳn về
cõi siêu linh, về những
phúc lạc trường tồn. Còn bao
nhiêu những nhu cầu vật chất như ăn,
mặc, ở, đi tuy họ không bỏ, nhưng
không còn âu lo như
trước, thay vào mối tư lự
thì nay là an lự tức
làm tận lực rồi quy thiên số.
Sự thành bại bỗng trở nên nhẹ
ký, tự nhiên họ đặt niềm tin
vào Chúa Quan Phòng
không đời nào để cho họ thiếu
những thứ cần nọ. Điều tin đó
làm cho lòng họ khoan
khoái thanh nhẹ hẳn đi. Đó
là về tâm hồn.
Còn
về sức khỏe thì thấy gia tăng hơn
trước, nhiều bệnh nan y nhờ tu mà
khỏi, họ cảm thấy đời là một cuộc
chơi dài dài làm bằng
những lớp tuồng tiếp diễn luôn
luôn, mà trong đó họ
vừa là khán giả, vừa
đóng một vai, cao có, thấp
có, đôi khi chơi vai đau khổ
thì họ chỉ thấy đó là
những kích động rất ơn ích
cho cuộc tiến hóa. Họ không
còn âu lo sợ hãi về
những cảnh trầm luân địa ngục nữa.
Vì họ đã quyết chí
trở về cùng Cha Trời, họ thấy
rõ Cha Trời đang chờ đón họ
kia, đang mỉm cười với những cố gắng của
họ, những khẳng định ý chí
của họ bằng tu niệm, công phu,
công quả, công trình.
Cho nên việc về cõi
trên trước kia họ coi như những
chuyện hoang đường, hay cùng lắm
như những ý niệm thoáng qua,
có thể là đúng
là hay nhưng không chắc đến
lượt mình... thì nay họ nắm
vững một trăm phần trăm. Vì họ
đã biết rõ cái
đó tuỳ ý chí của họ,
không hề tại Trời.
Cha
Trời chỉ có ngày đêm
mỏi mòn mong nhớ và
luôn gửi tín hiệu để khuyến
khích: mới tu thì có
thể là những cú sờ đầu
tê tê, rồi sau sẽ đổi ra những
cái xoáy trên đỉnh đầu
tưởng như Cha Trời đang mài mỏng
các xương thóp đặng
lúc nào tiện có thể
đập bể để mở thiên môn cho hồn
bay lên thiên giới, trong khi
chờ đợi thì lâu lâu cho
đi du lịch miễn phí: đó
là những cuộc xuất vía, xuất
hồn hầu quan sát dò đường
cho những cuộc bay xa về sau. Tuy
nói là dò đường
mà thực sự đã được xem những
phong cảnh nguy nga rực rỡ chưa hế thấy ở
trần gian, chứng tỏ rằng những truyện bồng
lai tiên cảnh với những phúc
lạc trên đó là
có thật, còn vượt xa những
câu truyện kể lại là
khác. Có nhiều bạn đạo chưa
được nếm trước những điều trên
đây (điển, du lịch) nhưng cũng tham
dự với tất cả bạn đạo niềm tin vững chắc
rằng họ đang tích luỹ những của
vô giá chẳng ai lấy mất đi
được nữa, kể cả cái chết. Hơn nữa
chính giờ chết là lúc
họ được đưa về làm chủ những của
cải mà bấy lâu họ vun bồi.
Nó
xa biết bao với lúc chưa tu đầy lao
tâm khổ tứ để chao vét, nhiều
khi dùng mưu gian chước quỷ,
ích kỷ hại nhân để thu
quén cho nhiều. Đôi khi cũng
hơi nghĩ lại: thu quén nhiều
mà làm chi, chết rồi
có mang đi được đâu
nào... Nhưng lập tức có
câu trả lời: ôi cái
chết còn lâu, mà cuộc
sống thì phải sống, hiện nó
đang trờ trờ ra đây, lại còn
gia đình con cái... biết
đâu mà duy tâm vớ vẩn,
thế là cố ôm, cố giữ rồi bỗng
dưng phải di cư thế là nhà
tan, cửa mất còn lại có “hai
bàn tay trắng”. Vậy đã
là may chứ nhiều khi tay cũng chẳng
còn để mà trắng. Rồi
vào Nam lại hùng hục chao
vét, lại giở đủ mưu chước xưa kia,
rồi một khi tiền của có lên
thì lại ôm giữ. Đùng
một cái lại di tản: hai bàn
tay lại trắng nữa. Rồi định cư ở đệ tam
quốc gia lại bắt đầu như trước cái
đời dã tràng xe cát
bể Đông. Nghĩ lại vậy họ mới thấy
cám ơn Cha Trời Mẹ Đất đã
đưa đẩy cho họ biết đường tu. Thôi
từ nay bái bai cái bể
đông với các đồng chí
dã tràng cũ để hô hấp.
Mỗi cú thở là mỗi thêm
chút thanh điển cất kỹ mãi
đáy linh hồn không một
chính phủ nào hòng
tịch thu nổi. Sao đời tu nó thơ
thới vậy ta. Ấy là chưa nếm hết chứ
nếu đã nếm nhiều hơn thì
còn thấy đáng ham hơn cả
triệu lần để đi đến kết luận rằng:
5.
Càn Khôn vũ trụ là
một cuộc hí lộng đầy hoan lạc
Câu
tuyên bố này khỏi gây
nhiều tranh luận ồn ào và
những lời cải chính rầm rộ
không những do người đời đã
chịu muôn cay ngàn đắng
vì đời, mà ngay cả những vị
tu đắc đạo cũng đồng thanh bảo rằng đời
là bể khổ, là biển trầm
luân, là thung lũng đầy nước
mắt... Nhưng xin nhận xét những
câu nói sau này
phát xuất từ những vị đắc đạo quả
thực là đúng mọi
đàng, nó khác với
những câu chê đời trên
kia mà tôi cho là
nói láo, bởi vì họ
nói trong vô minh,
không biết ý nghĩa cuộc đời.
Còn đây là các
bậc thầy quá hiểu cuộc đời bao gồm
nhiều cung, nhiều cõi, các
Ngài đã thấy phúc lạc
vô cùng của những cõi
trên đem so lại thì
cõi trần quả là bể khổ, cần
phải rút chân ra để vươn
lên cõi trên. Vì
vậy, đây không là
câu nói bi quan uỷ mị
mà là những câu
nói đầy sáng suốt và
tích cực lạc quan vì
nó chỉ cho ta đi vào nẻo
có hạnh phúc thực. Đường lối
đó là tu tiến, tu là
đi lên các cõi
trên.
Vậy
xin hỏi có bao nhiêu
cõi trên? Ta quen nghe
nói 9 tầng trời. Đạo Lão
nhân gấp 4 thành 36
cõi. Cõi thứ 36 nhà
Phật gọi là Ta Bà, đó
là cõi loài người
chúng ta đang ở. Cõi Ta
Bà ví như cái ‘bin
đinh’ nhiều tầng: chúng mình
ở tầng trên, quỷ ở tầng dưới,
các tầng giữa thì lộn
xòng nhiều người phải ‘share’
phòng với quỷ. Chưa cần tìm
vào những con số 9 hay 36,
đó chỉ là huyền số,
có thể nhiều hơn vô kể nhưng
chắc một điều là ngoài
cõi Ta Bà này
thì còn nhiều cõi
bên trên, nơi đời sống
khá hơn nhiều lắm, nghe nói
ngọt lịm à, phải tu mới nếm được.
Chứ cõi chúng ta ví
như người ăn bưởi mà chỉ gặm
có cái vỏ, rồi chửi thề bưởi
Biên Hòa ngọt ở đâu
nào? Đó là tại bạn
không gặm sâu vào trong
để thấy ngọt: chỉ cần cắn vào đến
cõi 35 đã mê
tít rồi chứ chưa cần lên đến
những đợt 34, 33, 32...
Hình
ảnh trên giúp hiểu tại sao
tôi kết thúc bộ triết An vi
bằng vũ trụ quan của “hóa nhi
đa hí lộng” coi tiến
trình hóa hóa sinh
sinh là một cuộc hí lộng của
Tạo Hóa mà trong đó
chúng ta được tham dự. Đó
là kết quả của một truy tầm
và nghiên cứu triết lý
kéo dài cả một đời người mới
đi đến được sự chấp nhận câu
nói nọ. Tôi cho câu
đó của tiền nhân là
một sự thành tựu to lớn, bởi
vì hầu hết triết học cũng như
thuyết lý không đi được tới
định đề nọ, mà thiếu định đề nọ
thì có giỏi mấy cũng
không tìm ra đuợc những
câu giải đáp thỏa mãn
cả lý trí lẫn tình
cảm cho những thắc mắc về cuộc đời, về
ý nghĩa sự sống, về vũ trụ quan
mãi tự xa xưa tới nay vẫn
liên miên được đặt ra,
thí dụ từ tác giả
sách Job cho đến văn hào Mỹ
Hemingway đã biết bao triệu lần
câu hỏi tại sao đời đầy đau khổ được
lặp lại, và nhất là tại sao
những người lành, những kẻ vô
tội lại phải chịu đày đọa
truân chuyên.
Hãy
đi tìm lời đáp cho
các vấn đề trên. Thoạt
tiên, cần gảy bỏ vũ trụ quan bất
động cách kinh khủng, nên
quan niệm bất động đã gây đầy
bế tắc trong văn hóa và
triết học không đưa ra được lời giải
đáp nào thỏa đáng.
Vậy phải nhìn về phía vũ trụ
quan động, nhưng trí ta liền hỏi:
tại sao động? Động để được cái
gì? Hễ thưa được cái
gì, thí dụ để Thượng Đế được
vinh danh, được tôn kính
là huỷ diệt Thượng Đế rồi
đó, bởi vì Thượng Đế
là vô cùng không
thể thêm cho Ngài được chi
hết, huống hồ chút vinh danh
tôn kính của con người
có là cái thá
chi đối với Ngài. Ngay cả tội lỗi
con người, kể cả tội phạm thượng cũng
chẳng là cái chi. Vì
thế phải là thứ động vô cầu
và đó là chơi.
Vì chơi mà muốn trung thực
phải là không tìm cầu
cái chi bên ngoài:
không tranh thắng, không tiền
tài, không danh vọng. Chơi
được như vậy chỉ có hài nhi:
hài nhi chơi luôn luôn,
mà chơi là chơi, không
đòi hỏi cái gì,
không biết đòi gì.
Vì thế mà ví Tạo
Hóa với trẻ đang chơi gọi là
“Hóa nhi đa hí lộng”.
Cuộc
hí lộng đó có thể
quan niệm như cuộc kéo cóc
vô cực vô biên mà
Hóa nhi tự phân thân
làm hai cực để có bên
kéo đi, bên kéo lại.
Bên kéo đi (hay kéo
lên) người Việt xưa kêu
là âm, là thanh,
là chiêu, là tả...
Bên kéo lại (hay kéo
xuống) gọi là dương, là
trược, là mục, là hữu...
Đó là bản chất vũ trụ. Con
người cũng như vạn vật, vạn sự đều phải
tham dự vào cuộc kéo
cóc này: ở con vật
thì cách vô thức; ở
con người thì cách hữu thức
hơn kém. Càng lên cao
càng nhận thức ra và
càng tham gia mạnh. Kéo
lên được thì hạnh
phúc. Bị kéo xuống
thì đau khổ. Cứu cánh con
người là phải kéo lên
đến nguồn cội để được hạnh phúc
cùng cực.
Lão
Tử nói: “Các phục quy kỳ
căn” = muôn vật đều đang đi
về nguồn gốc, tức không vật
nào mà không đang tiến
hóa, không đang đi về
nguyên bổn của mình. Con
người khác hơn con vật ở chỗ
có thể tham gia cách
ý thức vào việc tiến
nên có thể gia tốn đà
đi lên. Ý nghĩa cuộc sống
là ở chỗ đó, ở chỗ cuối
cùng sẽ tham dự đắc lực vào
cuộc chơi của Tạo Hóa. Như vậy
thì đời sống phải là một
cuộc chơi: nếu Thượng Đế là một
Hóa Nhi đa hí lộng Cha,
thì loài người cũng phải
là những hóa nhi đa
hí lộng con. Nói cụ thể: nếu
quan niệm vũ trụ như cuộc chơi của con Tạo
là ổn thỏa nhất thì cũng
phải xem đời người như một cuộc chơi mới
là quan niệm hay hơn hết cho con
người.
Chính
quan niệm nọ đặt nền móng tâm
lý cho cuộc sống an nhiên tự
tại. Xem đời sống là một ván
cờ, hoặc một vở tuồng, hay vở kịch
mà mình cũng đóng một
vai: tất cả những đau khổ, những sự bất
như ý, trái tai gai mắt
mình thấy hằng ngày đều
là dấu chỉ sự kéo xuống của
bên kia, mình cần cố gắng
kéo lên, để đời sống
ngày thêm tươi đẹp. Những sự
cố gắng đó mặc nhiều hình
thức gọi là nhân đức,
là trí, nhân, dũng...
cần được vun bồi cho ngày
thêm lớn mạnh. Vì thế
mà những bê bối, bất
công, lộn xộn trong đường đời
không ở đâu và bao giờ
có thể xóa bỏ, nên ta
phải tìm cho chúng lý
do tồn tại đó là để
rèn luyện trí óc con
người luôn luôn có dịp
xoay sở, tập minh biện, tập sáng
tạo những phương pháp mới
tìm ra đường lối mới để làm
đẹp cho cuộc sống. Cuộc sống ví như
chơi cờ ván ván khác
nhau, lý trí phải luôn
luôn tỉnh thức, dò trước
xét sau. Có vậy trí
mới tiến được. Trí có tiến
thì nhân và dũng cũng
mới tiến theo. Đó là
lý do sâu xa tại sao phải
nhận vũ trụ quan động, tại sao phải quan
niệm cuộc đời như cuộc chơi.
Sự
sinh sinh hóa hóa đó
không thêm gì được cho
Thượng Đế, nhưng với những tiểu hồn
thì thêm được, vì tự
trược tới thanh là cả một sự
thêm hoài hoài, nhưng
đấy là những sự thêm của tiểu
linh quang không đưa lại chi cho Đại
khối linh quang. Sở dĩ với tiểu linh quang
nói là có thêm
có bớt vì có đi tự
trược tới thanh, lại còn chịu luật
không gian thời gian: có sau
có trước, khác hơn
các cõi trên là
vì thời gian của cõi trần
kéo dài chứ trên
cõi trung tâm vũ trụ
thì một nháy mắt bằng cả
triệu triệu năm dưới này. Dưới
này sinh ra rồi từ từ lớn
lên, rồi bệnh, lão, tử... Chứ
trên trung tâm càn
khôn vũ trụ sinh diệt nối liền
không thể gọi là thêm
bớt được. Vì thế mà phải
dùng quan niệm hí lộng của
hài nhi. Hài nhi luôn
luôn hí lộng mà
không cầu cái chi:
không có ý thêm
được cái chi. Cũng vậy, Thượng Đế
chỉ hí lộng để mà hí
lộng, không thể cầu cái chi
bên ngoài, mà chỉ
là biểu diễn cái bản
tính của mình. Ta gọi
đó là cuộc hí lộng
của hài nhi, vì hí
lộng là hình thái
tác động tinh tuyền nhất, một
tác động có tính
cách an vi không thể cao hơn
được nữa.
Đó
là quan niệm rút ra được từ
các hình tạc trên mặt
Trống Đồng: các hình vẽ
trong đó đang tham dự một cuộc vũ
tiến về trung tâm. Tất cả là
một cuộc tiến hóa trong hoan lạc để
trở về với nguồn cội.
Bạn
có thể hỏi đời đầy đau khổ đắng cay
pha vào thì còn gọi
là cuộc chơi được chăng? Thưa rằng
vẫn được, vì đau khổ đắng cay chỉ
là thế đối với các tiểu hồn,
chúng cần những đau khổ để được
kích thích rời bỏ vỏ
ngoài trần trược đặng tiến
vào các cung, các
cõi bên trên. Vì
thế có đau khổ, nhưng đó
là đối với tiểu hồn thôi chứ
đối với Đại Hồn thì không
đáng gọi là đau khổ,
mà chỉ là một chút
khó nhọc y như khi ta chơi football
mà sầy tí da hoặc chảy mấy
giọt mồ hôi, cùng lắm
là bong gân về xoa ít
dầu nóng là xong. Hoả ngục
với tiểu hồn thì ghê gớm thật
chứ đối với Đại Hồn chưa chắc đã
đáng gọi là bong gân.
Còn những khổ luỵ đời này:
tai ương, bão lụt, bất công,
chinh chiến... chẳng qua là một
vài giọt mồ hôi. Đừng
nói chết vài trăm triệu, chứ
chết cả loài người trong quả địa
cầu này hỏi có thấm
vào đâu so với càn
khôn vũ trụ có cả hàng
tỉ địa cầu. Giả sử quả địa cầu này
có tan biến mất thì đối với
Chúa Tể càn khôn chưa
chắc đã đáng gọi là
một cơn sốt rét vỡ da.
Lại
còn vụ thời gian ba mươi năm, một
trăm năm đối với ta là dài,
chứ với Đại Hồn chưa đáng là
một nháy mặt. Hãy thử
nhìn bằng cái nhìn
của Đại Ngã mới thấy vòng
sinh sinh hóa hóa quả
là một cuộc vui chơi thỏa
thích của trẻ Tạo Hóa đang
hí lộng. Vì thế cần quan
niệm bao trùm cả vũ trụ. Phải tập
soi thiên địa vạn vật là nhất
thể mới dễ thấy ý nghĩa cuộc đời,
mới dễ sống an vui thanh thản như như
được.
Kính
Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô
Cực Đại Thiên Tôn.
IX. Tóm
kết
Mới
nhìn thì dễ tưởng
Pháp lý Vô vi
là một ngành nào
của Phật giáo: cũng thiền định,
người truyền pháp cũng cạo trọc
đầu, sách vở tràn đầy danh
từ Phật giáo...
Nhưng
khi nghiên cứu theo lối
cùng triệt tức theo cơ cấu
toàn thể thì thấy Phật
giáo chỉ đóng góp
một phần nhỏ có thể gọi là
bì phu hay nói theo cơ cấu
chỉ có ở đợt ngoài vi
là từ, còn mấy bước sau
như: tượng, số, và chế thì
lại hầu hết giống Việt.
Hãy
nói về chế tức phần hữu vi sắc
tướng thì Vô vi cũng đạt
bốn cái không như Việt Nho
là không chùa chiền,
không cúng bái,
không sư ni, không cả tổ
chức nữa. Đã vậy cái
tên Vô vi cũng lấy từ Việt
Nho.
Sau
chế đến tượng tức siêu hình
cách cụ thể bằng biểu tượng cũng
y hệt, nghĩa là Vô vi cũng
đặt trên thứ Vô tích
cực như Việt Nho nên không
hề mảy may thắc mắc về có linh
hồn hay chăng, chết có là
hết chăng như Phật giáo Ấn Độ
đã đặt ra, là vì
căn cứ trên siêu hình
tiêu cực, do đó cũng mang
tính cách bi quan.
Trái lại, khi truyền sang đất
Việt gặp nền siêu hình
tích cực đã dần dần nảy
sinh tinh thần lạc quan phấn chấn. Tinh
thần này sau được quy tụ
vào danh hiệu Đức Di Lạc, một
biểu tượng lạc quan yêu đời, coi
như đang sửa soạn vào đời
cách rất tích cực, đến độ
đã làm nảy sinh niềm tin
tưởng rằng: đời mạt kiếp nay sắp
tàn, Đức Di Lạc sẽ khai mở một kỷ
nguyên mới với trời mới, đất mới.
Niềm tin đó quả là một
phương lược truyền bá mau lẹ,
và đã làm nổ ra một
số cuộc nổi loạn khiến cho mấy vua sau
đời Tuỳ, Đường lo sợ nên đã
phải tìm mọi cách kiểm
soát Phật giáo.
Lại
còn biểu tượng về nguyên
lý mẹ vẫn “làm bà
Chúa xứ bên Việt” như
đã báo hiệu trong trang
huyền sử Man Nương và việc thờ
trời cũng lại hiện hình trong
Linh Nữ Kim Thân Cha mang đến cho
Vô vi hai đặc tính Việt
không thể lẫn vào đâu
được là tình mẹ lý
cha.
Bây
giờ nếu đi sâu hơn vào Số,
ta cũng sẽ nhận ra Vô vi đi theo
bộ số nền tảng của Việt Nho là “vài
ba tham lưỡng”. Bộ số này
hàm tàng một nền triết
lý cân đối giữa tâm
vật rất cao siêu, nhưng
không may con cháu
đã để cho lu mờ.
May
thay đến nay được phục hoạt cách
chói chang qua pháp
Vô vi cùng với quyển “Chơn
Lý” về hiện tượng Kim Thân
Cha, đó là những điều
làm cho tôi phải
choáng ngợp, khiến cho sau khi
cứu xét cặn kẽ “theo sự yếu đuối
loài người có thể”
tôi phải tin. Đây
không phải đức tin tôn
giáo mà chỉ là niềm
tin triết lý, tức người tin vẫn
còn giữ sự tự do lựa chọn, cũng
như chỉ tin những điều mà lương
tri có thể tìm ra chỗ tựa.
Đó là điều tôi
tìm được rất nhiều trong quyển
Chơn Lý: cả những câu
tuyên bố động trời làm
nhiều người kinh ngạc, nếu không
coi là chướng tai, chẳng hạn “quỷ
ma cũng là phần của Thượng Đế.
Thượng Đế là kẻ đại
ác...” Những câu
khẳng định kiểu này làm
biết bao người mích lòng,
vì nó mới lạ quá.
Bên Tây phương mới thấy
có Carl Jung, tổ sư khoa
uyên tâm tuyên bố như
thế trong quyển “Réponse à
Job” của ông, nhưng cũng
không dám nói quyết
liệt như quyển Chơn Lý. Vậy
mà đối với tôi, câu
đó cũng chỉ là quảng diễn
mạnh mẽ một chân lý
đã có tự đầu, vì
là nền tảng của triết lý
Việt Nho. Thí dụ trong câu
định nghĩa “người là quỷ
và thần một trật” (nhân
giả quỷ thần chi hội). Người
là con, Thượng Đế là cha.
Rau nào sâu nấy. Con
đã là quỷ thì cha
cũng là quỷ luôn chứ sao.
Nghe
lạ quá phải không? Sự thực
đó chỉ là hệ quả của
câu định đề nền tảng là “thái
cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh
tứ tượng...” Lưỡng nghi là
chi? Ai cũng biết là âm
dương. Nhưng âm dương là
chi? Thưa là cặp từ để chỉ hai
thái cực chống đối nhau: đất
trời, tối sáng, quỷ thần...
Tóm lại hết mọi trạng thái
chống đối nhau đều gọi là
âm dương. Thần và quỷ cũng
nằm trong đó. Thần là
chí nhân chống với quỷ
là chí ác. Nếu
đã quan niệm Thượng Đế là
chí nhân, chí thần
thì đương nhiên phải
có chí ác, phải
là quỷ. Có vậy mới
có hai cực giằng co nhau. Phải
như vậy mới là Thượng Đế.
Vì Thượng Đế phải được quan niệm
như một tác năng vô
cùng vô cực hay nói
cụ thể hơn là “khối điển
quang vô cực vô biên”.
Vậy nếu không có hai cực
một tiêu một tích
thì còn chi là
điển. Mà không là
điển thì còn chi là
Thượng Đế. Người ta quen quan niệm
Thượng Đế là đấng chí
nhân không vương chút
ác nào và quỷ ma
là thù địch của
Ngài. Quan niệm như thế là
do lòng mến yêu cung
kính Thượng Đế nhưng lại
là quan niệm một chiều nên
chính là huỷ diệt Thượng
Đế. Vì nếu quỷ mà
không là Thượng Đế
thì tất chúng sẽ giới hạn
Thượng Đế. Thượng Đế bị giới hạn tức
là có cùng,
cùng đó là những
quỷ ma hay bất cứ cái chi
không phải làThượng Đế. Vậy
là hạ Thượng Đế xuống bậc
có cùng rồi, thế chẳng
là huỷ diệt Thượng Đế còn
chi? Thượng Đế phải là đấng
vô cùng: không thể
có bất cứ cái chi giới hạn
được Ngài kể cả quỷ. Nên
quỷ chính là thành
phần của Thượng Đế. Người ta sợ
không dám nghĩ như vậy
vì con người quen quan niệm một
chiều: tốt là tốt, xấu là
xấu, mà không quan niệm
được cái xấu nằm trong cái
tốt. Và tốt vô cùng
lại phải đi kèm với xấu vô
cùng: cái xấu vô
cùng đó phải trở nên
yếu tố cấu thành sự tốt; y như
phải có giây lạnh đi với
giây nóng mới làm
cho có điện, vì điện gồm
cả giây nóng lẫn giây
lạnh. Có vậy mới làm ra
nóng ra sáng được.
Nói
lướt qua một thí dụ thôi để
tỏ rằng nền triết trong Pháp
lý Vô vi qua Kim Thân
Cha ăn khớp với triết lý An vi
ngay cả trong những khẳng định ghê
hồn. Phương chi các câu
quyết đoán khác đều ăn hợp
hoặc cách minh nhiên hoặc
cách mặc nhiên. Vì
thế An vi thâu nhận Pháp
lý Vô vi chẳng qua
là thâu nhận những quảng
diễn khác hơn của chính
mình mà thôi.
Một
khi đã nhận phần Pháp
lý rồi tôi mới xét
kỹ phần pháp hành.
Và ở đây lại ngạc
nhiên không ít, khi
thấy pháp hành đã
được Việt Nho là bộ số “vài
ba tham lưỡng” với các hệ
luận của nó. Ta hãy
ôn lại sơ qua: trước hết là
phép soi hồn: không
ngành Yoga hay thiền nào
có hết. Thế mà đó
lại là điều đáp ứng với
nét đặc trưng của Việt là
chú ý tới bộ đầu như
đã nhắc về tượng Nữ Thần Mộc đầu
đội mũ nhọn, được bình dân
hóa thành nón
Chóp và biểu thị bằng
các thứ đỉnh đồng... Soi hồn cũng
hàm tàng bộ số của Việt
Nho là 2, 3, 5: giơ hai
cánh tay lên (số 2) bịt tai
mắt tinh (số 3) rôi hai khuỷu tay
ở trên liên hệ với hai đầu
gối ở dưới vẽ ra hình vuông
(số 4). Đó chính là
hai bộ số của bánh dầy (3)
bánh chưng (4) vậy.
Tác
động thứ hai là thở cũng được
Việt hóa luôn với khẩu lệnh
đầy rốn, đầy ngực, tung lên bộ đầu
làm liên tưởng tới ba phần
tang trống là: chân,
thân, tang tương ứng với rốn,
ngực, đầu hoặc các cấp trước
bàn thờ của Cổ Việt bó
buộc phải có ba (số 3) nấc.
Ngoài
ra lại còn những câu quen
thuộc của Việt Nho gồm các số như
2 là hai mạch nhâm đốc, số
3 như tam bửu: tinh, khí, thần.
Số 5 là “ngũ khí triều
nguyên”... Quẻ Vô vi
đã được Việt hóa trọn vẹn.
Nếu chỉ xem có bên
ngoài thì người Tây
Âu sẽ gọi là phép tu
Ấn Độ. Người mình thì gọi
là của Phật nhưng khi xét
thấu triệt, vạch kỹ để xem con dấu chủ
quyền đóng sâu xuống di vật
thì phải nói Thiền
là một di sản chung của
Đông Nam Á trong đó
Việt tộc giữ vai then chốt. Chính
phép thiền cũng đã xuất
hiện lâu đời dưới vô số
tên và nhiều cách
thức mà tất cả đều nhấn mạnh đến
sự trống rỗng tâm hồn, Nho gọi
là hư tâm. Việt chỉ bằng
chữ Trống (trống đồng) hay bằng hang
động như trong tên “Động
Đình Hồ”. Lão Tử gọi
là Cốc thần, Trang Tử gọi
là trai tâm hay tọa vọng.
Người ta bảo là phép
đó có tự thời Vô
Hoài nghĩa là không
ai nhớ xuất phát tự đâu
và tự bao giờ nữa, chỉ biết rằng
về cách tọa thiền thì được
dân Dravidien bên Ấn Độ vun
bồi, rồi sau người Aryen thâu nhận
về đặt tên là Yoga, một
tiếng cùng gốc với từ La Tinh
Jungo có nghĩa là nối,
hiểu là nối kết con người với
Thượng Đế. Đó là tâm
pháp được các tôn
giáo bên Ấn Độ đều
thâu nhận như
Bàlamôn, Jaina, Phật... rồi
sau truyền sang Tàu và gọi
là Thiền. Chữ này
là một âm khác của
chữ Thiện đi sau chữ Phong để chỉ lễ tế
Trời và Đất đã có
tự thời Vô Hoài trong địa
bàn Cổ Việt là vùng
Thái Sơn. Khi tế thì
quét đất cho sạch để làm
bàn thờ mà tế. Có
thể vì việc quét
này mà chữ Thiền được
dùng để chỉ việc định thần
vì muốn “định thần” thì
phải quét khỏi tâm hồn
những vấn rác thế tục. (1)
(1)
Lễ Phong tế ở Thái Sơn, lễ Thiện
tế ở Hội Kê, kinh đô Cổ
Việt. Không hiểu tại sao Hội Kế
lại ra Cối Kê. Đọc Hội Kế
có ý nghĩa hơn nhiều:
nghĩa là tự 4 bên quy tụ về
giữa để tính sổ sách.
Tóm
lại Thiền là di sản của chung
miền Đông Á có
đã tự thời Vô Hoài,
nay được Vô vi thâu nhận
thì chính là được
Trời ban lại cho dân Việt, sau khi
đã Việt hóa cách
sâu rộng, ngoài ý
thức của người “tìm ra” hay người
truyền bá. Thí dụ khi
ông Tám bảo lúc
thiền phải quay mặt hướng Nam (hướng
hỏa) hoặc khi nuốt nước bọt phải quay
mặt sang phía trái, hay
nói 12 vòng thở theo
pháp luân chiếu minh
là vòng con giáp...
thì cả ba việc đều là
những nét đặc trưng của Việt tộc.
Cả đến quốc hoa Việt là hoa 9
cánh cũng có thể coi như
được gặp lại trong tên của Cha;
một tên gồm 9 số: 4 số vòng
ngoài cùng gọi là
số thành gồm “Ngọc Hoàng
Thượng Đế”, còn 5 số vòng
trong (hay số sinh) là “Vô
cực Đại thiên tôn”, lại được
khuyến giục “thường niệm, vô biệt
niệm” làm liên tưởng tới
các đoàn vũ trên
trống đồng đang hiện thực câu: “Hoa
quỳ chăm chăm hướng về Thái
Dương”.
Rồi
từ đó liên tưởng đến những
lễ tế trang trọng như Tế Thiên
và hình thức nhà
Minh Đường với thể chế tứ quý
(tức dành tháng cuối mỗi
mùa để tĩnh tâm). Tôi
cho việc thường niệm “Hồng danh Cha”
là một thứ lễ Tế Thiên
đã được bình dân
hóa và phổ cập đến với mọi
người, để dân tự tế lấy cho hợp
thời đại dân chủ. Với việc “thường
niệm vô biệt niệm” tôi cũng
cho đó là thể chế tứ
quý được phục hoạt không
phải chỉ 4 tuần trong một năm mà
trong hết mọi ngày, mọi giờ: đi,
đứng, nằm ngồi, đều nghĩ đến Cha, niệm
Cha khiến cho mối tình giữa Cha
Trời và các con trở
nên thấm thiết hơn xưa muôn
phần. Điều này kể ra cũng
là được Việt hóa nữa,
vì nét đặc trưng của Việt
là tình người được vun bồi
coi như nét chính:
nên ta thấy tình người,
tình nhà, tình nước
thắm thiết xiết bao. Nay được áp
dụng vào Thượng Đế cũng trở
thành tình cha con nồng
nhiệt, không phải khô khan
như Thái cực hay Thượng Đế trong
Nho hay quá lu mờ như Thái
Hư trong Phật, mà là thắm
thiết như cha con. Cha mà mẹ
luôn: hai mối tình lai
láng xuất hiện vào một.
Điều
này làm tôi
liên miên nghĩ tới
“Tiên mẫu Long phụ” gặp nhau
trên Cánh Đồng Tương”
thì nay “Tiên mẫu Kim
Thân Cha cũng chứa đầy kỳ diệu.
Đó không là cuộc gặp
gỡ giữa mẹ tiên cha rồng sao?
“Thân mẹ mà tiếng cha”.
Hiện tượng đó cũng làm
tôi nghĩ tới câu “Nữ Thần
Mộc dạy anh em Lộ Bàn Lộ Bộc
làm nhà chữ Đinh”, tức dạy
Đạo làm người, thì nay
cũng “Tiên Mẫu Kim Thân Cha”
dạy miêu duệ của Mộc Việt biết
đường “Vi nhân” đích thực
là trở về nguồn cội muôn
loài. Nguyên lý mẹ
năng được nhắc tới trong bộ triết
lý An vi bỗng hiện ra trong xương
trong thịt với đám con đang lao
đao khổ luỵ ngút trời.
Cuối
cùng cũng nên kể đến 4
chặng tu tiến theo Việt Nho là
định, tĩnh, an, lự. Ban đầu Vô vi
có phần dừng lại ở hai đợt đầu:
định, tĩnh. Nhờ Đức Kim Thân đẩy
cho một cái mới mạnh dạn đặt
chân lên hai bước sau (người
đẩy bằng nhấn mạnh đến Đạo làm
người: coi trọng nhân nghĩa, lễ,
trí, tín, đừng coi thường
địa tiên... và còn
chiều hướng dấn thân vào
chính trị).
Tóm
lại khi xét bao quát từ
tên gọi, qua thể chế (không
tổ chức, 4 không của Việt Nho) qua
siêu hình tích cực,
qua bầu khí yêu đời cho đến
nền triết tiềm ẩn trong bộ số vài
ba, thấy đều giống với Việt Nho.
Có thể nói Vô vi
chính là Đạo Nội
trùng phùng; huyền sử Việt
cũng chính là tiền sử
Vô vi. Mỗi trang huyền sử hoặc ấn
tích của văn hóa Việt
là bấy nhiêu bài
khuyến “tu tâm dưỡng tính”.
Còn Đạo do Cha Trời ban
thì xưa kia được nói
bóng là Nữ Thần Mộc dạy,
đến nay việc trùng tu Đạo Nội
cũng lại do Cha Trời hiện thực qua huyền
nữ Kim Thân. Ông Tư,
ông Tám chỉ là
công cụ thường không thể
làm chi được, phải do Cha Trời
ban ra mới có được một đường lối
tu dưỡng đặc biệt như vậy. Nói
theo Yoga thì Vô vi
là một Yoga tổng hợp gồm cả Yoga
sùng mộ (bhakti) cả Yoga
tác hành (Karma) nhưng
được dẫn đầu bởi Yoga trí tuệ
(Jaina). Nói theo đạo pháp
thì đây là lối tu
đầy lòng sốt sắng đối với Cha
Trời, mà đồng thời lại là
một nền triết cực thâm hậu. Cả hai
điều đó đi với nhau làm
nên một lối tu rất hiệu nghiệm,
vì là lối tu hợp
tình hợp lý, cũng
chính là lối tu hợp đạo
nội của Việt tộc, nghĩa là một
đạo pháp dẫn đầu bởi Minh Triết,
như trong việc tiếp thâu Phật
giáo đã chứng tỏ điều
đó bằng uốn nắn cho đạo Phật phải
Việt hóa phần nào mới tồn
tại được trong địa bàn Việt.
Nếu
ai thắc mắc hỏi tại sao chúng
tôi lại dồn tâm sức
vào việc chứng minh Vô vi
giống với Việt Đạo? Thưa là
vì Vô vi chỉ là một
đạo nội nên cũng cần đến phần
ngoại vương. Vì quyền hành
điều động thế giới xưa rầy nằm trong tay
ngoại vương, trong tay triết lý.
Ở
đâu và bao giờ cũng vậy “ce
sont les idées qui gouvernent le
monde” chứ không phải mấy người tu
(tu chỉ là đạo nội, muốn cải đổi
đời phải kiêm ngoại vương, ấy
là nói theo hữu vi,
mà đã viết ra lời lẽ thuộc
hữu vi). Học giả hay nhắc đến vụ Phật
giáo Tàu phát đạt
mạnh từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 12,
có lần tưởng đã trở
thành quốc giáo, nhưng đến
khi siêu hình Kinh Dịch
phát triển với nhóm Chu
Trình thì liền đi lần
vào chỗ lụn bại, ấy tại phần
ngoại vương yếu kém. Bên
Việt cũng một hiện tượng xuýt
xoát đã xảy ra trong đời
nhà Lý đạo Phật mạnh nhưng
đến nhà Trần đạo Phật lùi
bước trước Nho. Điều đó chắc sẽ
không xảy ra nếu như Phật hợp với
Nho đã hòa hợp như Nội
thành với Ngoại vương. Nhưng điều
đó không có (hoặc
quá ít). Vì vậy
chúng tôi cố chứng minh
Vô vi là nội thành
của Việt Nho thì là muốn
độc giả nhận thức được sự vững
vàng của nền đạo pháp mới
này. Điều đó rất thuận lợi
cho những người đang đi tìm Đạo
mà biết rõ cả trong lẫn
ngoài như vậy thì sẽ bớt
đi được nhiều lý do ngần ngại.
Nếu
muốn hỏi đâu là nét
đặc trưng hơn cả của Việt Đạo thì
đó chính là chữ Tự:
tự đạo, tự thành, khác xa
nhiều lối tu khác thường
còn quá lệ thuộc
vào sự phù hộ. Sự cầu
phù hộ thực ra không phải
là xấu, trái lại
còn cần nữa là khác
nhưng chỉ nên dành cho
những trình độ khởi đầu y như con
nít mới tập đi phải nhờ cậy mẹ
nâng đỡ. Nhưng rồi mỗi ngày
mỗi tiến thêm thì phải lần
lần tập đi một mình: càng
lên cao càng phải tự lập,
vì tự lập là đức
tính làm ta giống với Cha
Trời hơn cả. Người là đấng tự thể
trọn vẹn, nên hồn càng tới
gần Người thì càng phải
thêm đức tự lập để giống Cha.
Vì thế đức tự lập trở nên
một thứ thước để đo tầm cao thấp của một
đạo pháp. Việt Đạo sở dĩ được gọi
là siêu việt chính
vì giàu đức tự lập, tự
cường nọ vậy. Nho gọi đó
là “trung lập nhi bất ỷ”.
Đấy là nét đặc trưng nội
tại.
Nếu
hỏi đâu là dấu đặc trưng
bên ngoài thì
đó phải là chữ Thái
Hòa, nói kiểu triết
là bao được cả Thiên cả
Địa: “Thiên Địa có vị
yên” thì vạn vật mới “tịnh
dục”. Vạn vật trong con người hiểu
là cả Vật lẫn Tâm, tất cả
đều được nuôi dưỡng vun bồi.
Nói theo Vô vi là cả
trược lẫn thanh, cả đời lẫn đạo đức song
tu: tu đạo mà không bỏ đời,
trái lại đêm công
phu, ngày công quả,
công trình. Cha Trời
luôn luôn nhắc nhở
các con phải lo tròn Đạo
làm Người mới có đà
tiến lên làm Tiên,
Thánh, Phật. Khác với
nhiều lối tu ưa tị thế tránh đời,
coi đời là giả trá cần
lánh xa. Ở đây tu cả hai,
đúng là nét song
trùng đặc trưng của Việt Nho tạo
nên sự cân đối giữa hiện
tượng và siêu việt, giữa
“hai đất với ba trời”. Cả đến quyển Chơn
Lý mà Vô vi
có thể nhận làm kinh điển
cũng chính là một quyển
triết lý nhân sinh, tức
nói những điều mà
tình lý loài người
dễ dàng theo dõi mặc dầu
rất cao siêu nhưng không
lúc nào là duy niệm
hay duy thức xa lìa đời sống. Tỏ
ra sức ngoại hàm cực rộng gồm
thâu tất cả.
Nói
kiểu khác thì câu “thiên
địa vị yên” có nghĩa
là cả lý cả tình
đều được chú ý:
tình lý tương tham.
Nói đến văn hóa Việt
là phải chú ý đến
tình: tình người,
tình nước, tình nhà
đều được vun bồi rất mực. Thế mà
tình ấy lại hòa hợp với
triết lý thâm sâu,
thâm sâu đến độ đạt Minh
Triết, nó ở tại đáp ứng
mọi nhu yếu nền tảng của con người: tất
cả đều được nuôi dưỡng (vạn
vật tịnh dục). Chính chỗ
tình lý tương tham
này mà văn hóa Việt
có tiếng là dùng
nhiều biểu tượng: là vì
đang khi lý trí có
giới mốc, có biên cương,
thì tâm tình lại
có tính cách uyển
chuyển không phân bờ
cõi rõ rệt, vì thế
mà phải dùng nhiều biểu
tượng, là vì biểu tượng
có tính cách co
giãn như cao su, dễ dàng
thích nghi với hoàn cảnh
để cho tình lý tương tham
mà lấy quyết định tuỳ theo
hoàn cảnh, không cứng đơ
kiểu duy lý hay duy tình.
Chính trong bối cảnh đó
mà chúng ta được hoan hỉ
tiếp nhận biểu tượng lớn lao vô
cùng về Thượng Đế giáng
phàm trong một xác
thân linh nữ. Yếu tố Nữ nói
lên mối tình thâm
thiết của văn hóa Việt xưa
đã biểu thị bằng các nghi
mẫu, gọi chung là Tiên mẫu.
Còn mối tình nào
cao cả, bao la hơn tình mẹ. Thế
mà vẫn đi với nền triết
siêu phàm. Cụ thể là
Pháp lý Vô vi ra
được một dạng thức hòa giải giữa
tôn giáo và triết
lý. Xưa nay, triết lý
quá chuyên về lý
mà lãng bỏ tình
người. Còn tôn giáo
thì quá chú
ý về tình mà
lãng về lý, nên
không mấy khi hợp nhau. Nay
Vô vi nhờ biểu tượng Tiên
Mẫu Kim Thân Cha đưa ra được một
nền triết thâm sâu mà
lại đi với một đạo pháp đầy ứ
tình người, bơm thêm sinh
lực cho triết lý để thẩm thấu
ngày càng sâu
vào con đường Đạo.
Một
số độc giả có thể thắc mắc tại
sao chúng tôi nói
tới Phật giáo hơi nhiều về những
khía cạnh cần sửa sai. Xin thưa
rằng đó quả là điều bất
đắc dĩ do sự vụ là Vô vi
đã quá thiên về
Phật, mượn của Phật nhiều điều
làm mờ cả Vô vi. Nghĩ cũng
tội nghiệp. Nếu Vô vi không
tâng bốc Phật quá nhiều
thì có ai dám
nói chi đến Phật đâu, nhất
là càng ngày
chúng tôi càng
thâm tín rằng đạo
nào cũng tốt, tốt cho một số
người ở trong một trình độ
nào đó. Có
muôn vàn trình độ
thì cũng cần rất nhiều đạo
khác nhau, nhiều tôn
giáo khác biệt để ứng hợp
cho mỗi trình độ, cần đến nỗi
nói được cả tà đạo cũng
hợp cho một số linh căn (vì
tiên khiên những linh căn
đó phải theo tà
giáo để trả nghiệp thí
dụ). Đàng khác, trong việc
tu tiến thì quan trọng trước hết
phải kể đến là lòng
thành: hễ có lòng
thành thì dù đạo
thấp rồi cũng cao, đạo tà rồi
người theo cũng có thể làm
cho nên chánh. Bởi vậy rất
không nên phê
bình chỉ trích bất cứ
tôn giáo nào. Huống
chi lại là Phật giáo,
là một đạo cao đẳng: Đức Phật
là một tấm gương sáng
chói của nhân loại rất
đáng kính tôn,
vì Người đã bỏ ngôi
báu để chọn con đường tu
hành và tu theo lối cao
nhất là thiền định, nên
đã có thể lưu lại ảnh
hưởng lớn lao trong văn hóa. Chỉ
nội bấy nhiêu đã quá
đủ để được thán phục, ngợi ca
không thể hết lời, chứ có
cần chi phải tạo những truyện quá
đáng làm cho Phật
giáo trở nên khó cho
lý trí chấp nhận.
Thế
nhưng có những người quá
sùng mộ đã không
chịu theo như vậy, họ đã
tâng bốc Phật với óc tưởng
tượng buông cương: cả dám
tôn Phật lên trên
Thượng Đế, lấy tên Phật đặt cho
Đấng Tối Cao, làm nảy sinh
nào là Hắc Bì Phật
Tổ, A Di Đà Phật, nào
là Tam Thân Phật...
thì đó là phạm tội
liệt vị rõ rệt gây ra sự
suy thoái có hại cho đạo
Phật rất nhiều, khiến những người quan
sát khách quan không
còn dám ca ngợi Phật nữa
vì e phạm tội a tòng với
những kiểu tâng bốc quá lố
đến phạm thượng kia. Bởi thế khi truyền
sang bên đất Việt Nho, mới
làm nảy ra những câu như
“phùng Phật sát Phật”...
Nhưng đó chỉ là cái
nhìn ước ao, loé
sáng chưa đủ minh biện cặn kẽ,
nghĩa là chưa chỉ tỏ ra được
những Phật nào phải sát,
vì sao phải sát, mà
chỉ nói chung thì
có ai sát được ông
Phật nào đâu. Vì thế
đến nay Cha Trời lại phải truyền lệnh:
“Tiến
vào cõi khổ.
Đạp
đổ Niết Bàn.
Giết
“ta” Phật “ngã”:
Rõ
mặt Ngọc Hoàng”.
Câu
ba nói rõ phải giết
ông Phật nào. Đó
là những ông Phật do
trí óc phàm
ngã của người sau tô tạo,
nên gọi được là “ta Phật
ngã Phật”. Những ông Phật
đó đều phải giết hết thì
mới rõ được mặt Ngọc
Hoàng. Chính Phật chưa đi
tới Pháp thân, mà
đã vội đưa Phật lên
đó rồi. Vậy là phạm tội
liệt vị còn chi. Đã thế
còn giữ độc quyền cho Phật,
làm sai luôn thuyết Tam
thân.
Thuyết
đó chính là một
kiểu nói bóng để tả đại
khái những chặng tiến của
tâm thức con người:
“Nhục
thân” là đợt còn
trong trần trược.
“Hóa
thân” là khi tu đã
đắc đạo, đã sang bến giác.
“Hóa
thân” là khi giác
đến tột cùng, đến toàn
giác trở về đến tận nguồn cội.
Nho gọi là “phối thiên”,
Lão giáo gọi là
“huyền đồng”.
Vì
thế Pháp thân có
những thể tính y như Thượng Đế:
“thường trụ, an tịnh”... Như vậy
không nên đưa chữ Phật
vào vì sớm quá hay
đúng hơn vì quá sức
phán đoán của con người.
Con người chỉ thể biết đến Hóa
thân là cùng. Phương
chi càng không nên
chiếm độc quyền cho Phật. Hắc Bì
Phật cũng phải bỏ. Lên đến đấy
thì còn bì nữa
đâu mà hắc với bạch?
Đến
Adiđà Phật cũng vậy, Phạn ngữ
là ‘Amitabha’ thì ‘amita’
là vô cùng, ‘abha’
là sáng, Tàu dịch
khá sát nghĩa là
“vô lượng quang”, không
có Phật nào cả, đó
là Thể sáng của Thượng Đế,
cũng là “ánh linh quang”
của con người, Nho gọi là “Minh
Đức” (tại minh Minh Đức). Nay thêm
tiếng Phật vào thành ra
là của riêng ông
Phật, thế là cũng tham dự
vào tội soán đoạt liệt vị
nốt, nên cũng phải giết: để vậy
mới nghe đã tức cười: bỏ tiếng
sáng (abha) đi rồi chỉ còn
vô cùng, như vậy
Adiđà là niệm cái
ông vô cùng. Ủa
có cái ông gì
tên là vô cùng
vậy ta!
Đại
để đó là lý do tại
sao nói về Vô vi mà
phải viết thêm ít lời về
Phật. Vì tôi thấy Vô
vi xem ra có phần quá đề
cao Phật đến độ tha và vô
vi toàn những loại ta Phật
ngã Phật nên buộc
lòng phải nói ra cho minh
bạch mong cho Pháp lý
Vô vi không bị nhận lầm với
những tầm giử của Phật giáo hầu
trở nên dễ hiểu, dễ theo cho mọi
người.
Kính
Lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế
Vô Cực Đại Thiên
Tôn.
X. Vài
cảm nghĩ về bản dịch quyển "Chơn
Lý"
Đây
là một bản dịch rất công
phu sát nghĩa đáng mừng
cho Vô vi. Ngay cái
tên sách đã thấy
đáng yêu, vắn gọn: ‘truth
by god’. Người trình bày
lại chọn màu bìa
vàng Kim càng làm
tăng thêm ý nghĩa.
Đành rằng khi đọc bản dịch ta chỉ
thấy được chừng 80% của chính
văn, nhưng thiết tưởng đó
là cái mức hầu cuối
cùng mà bản dịch dù
tốt nhất cũng chỉ có thế tới mấp
mí cỡ đó; “dịch là
diệt” mà. Cho nên trừ
ít tiểu tiết thì
nói chung đó là bản
dịch rất được.
Mấy
điều bàn sau đây thuộc về
phần chú thích. Phần
này tỏ ra dịch giả là
người có đọc sách về
nghiên cứu Phật giáo, tuy
có gia thêm uy tín
cho bản dịch nhưng cũng có chỗ
vì đó mà làm
thiệt bản dịch phần nào.
Vì dịch giả cố chú
thích quá sự cần thiết
nên có vẻ lôi quyển
sách vào chân trời
(môi sinh) Phật giáo,
đó là điều không
đúng ở cơ cấu. Cơ cấu chú
trọng rất ít đến từ mà
chuyên chú ý tới
cái môi sinh. Cái
môi sinh Phật là tiêu
cực, bi quan, phi thế, còn
môi sinh quyển Chơn Lý
thì tích cực, lạc quan,
nhập cuộc. Vậy hễ điều nào
làm cho quyển Chơn Lý mặc
lớp Phật giáo quá
đáng thì sai với bầu
khí của nó. Có hai
luật coi như của riêng Phật nhưng
thực ra không phải, vì hai
luật đó chỉ là hệ luận của
luật bao quát hơn là tiến
hóa, mà tiến hóa
lại là nền của Việt Nho như được
trình bày trong Kinh Dịch.
Nên Việt Nho chấp nhận hai luật
đó cách rất dung dị, coi
như những quảng diễn đặc biệt của luật
chung tiến hóa vậy.
Cũng
nói được về nhiều điểm
khác như vậy. Vì thế từ
ngữ của Phật có nhiều tới
đâu cũng không đổi được bầu
khí quyển Kinh. Nhất là
khi ta thấy Cha Trời rất xuề xòa,
không chấp vào lời
chút nào tức không
cần hiểu theo nghĩa gốc mà hiểu
theo tiếng nói thông thường
thí dụ khi ta nói mạt kiếp
thì chẳng cần phải nghĩ đến Kalpa
của Ấn, nói Vô vi trống
rỗng cũng không cần nghĩ đến
Thái Hư (Synysta). Vì
những chữ ấy đã Việt hóa
nếu không phải là
chính Việt ngữ. Bởi thế sự
móc nối với từ gốc Phật nhiều khi
không cần mà còn
có thể làm sai lạc
chân trời.
Đây
tôi đưa ra thí dụ về định
nghĩa “Thượng Đế là khối điển
quang” (câu 59) thì
rõ ràng là điển tại
sao không dịch bằng một từ
nào thuộc ‘electricity’ mà
lại dịch là ‘energy’. Tôi
đoán dịch giả ưng chữ này
hơn vì cái hậu trường Kinh
Điển âm u là chữ Prana,
không như chữ điển nghe nó
có vẻ nhà bè
quá, trần tục quá,
làm sao ví được với chữ
‘energy’ kèm theo Prana Akasa đầy
u linh. Vậy nhưng bản văn nói
điển mà khi đọc ta không
nghĩ gì đến khí, nhất
là khi đọc kỹ câu 4
và 5, hay khi nói về con
người còn rõ hơn nữa “người
là điển quang được cấu tạo bằng
điển âm và điển dương”
(câu 49) như vậy mặc dầu chữ
‘electricity’ có vẻ trần tục cũng
vẫn nên dùng mới giữ được
cái bầu khí của bản văn,
vì bản văn là của một vị
chị chơi: nói những điều lạ
và trần tục hơn nhiều, còn
khó nghe là khác,
thí dụ “Thượng Đế cũng
là quỷ ma, Thượng Đế là
đống phân...” thì
có ngại gì mà
không dám dịch là
điển quang. Xét cho cùng
câu nói Thượng Đế là
điển chính là một định
nghĩa mới lạ của bản văn, là một
khải thị vĩ đại vừa cao sâu
cùng cực mà lại cụ thể hơn
hết trong thời này. Vì
ngày nay con người đã được
nhờ tác dụng của điển hàng
ngày, và chẳng ai thấy
hình tượng điển ra sao cả. Vậy
có phải là ứng hợp với
Thượng Đế không? Chẳng ai thấy
Người, nhưng không một cái
gì dù sợi tơ, sợi
tóc trên đầu ta mà
lọt ra ngoài quyền Ngài
được.
Nhất
là khi nghĩ tới điện tử là
nền tảng vạn vật và nhất thứ khi
nói riêng về điện tử
(electron) chính là nền
tảng tinh thần nữa, thì dịch
là điển thiết thực xiết bao, chứ
‘energy’ làm sao ví được,
mặc dầu ‘energy’ có hàm
chứa ý niệm điển nhưng nói
chung quá nên dịch giả
đã dùng để dịch cả tinh,
khí, thần, vì thế tiếng
‘energy’ làm mất đi ý niệm
mạnh mẽ vô song của chữ điển.
Huống
chi quyển Chơn Lý xuất hiện trong
Vô vi, mà Vô vi
thì rất đáng tên
là “điển quang pháp giới”.
Người tu đến trình độ nào
sẽ cảm được điển, rồi chú
ý đến điển: lúc được
thêm điển, lúc bị mất điển.
‘Energy’ hay ‘Prana’ không thể
nào gây được cảm nghĩ
sâu xa, thắm thiết và bao
la như vậy. Cho nên không
dịch điển là điện là một
sự mất mát lớn lao. Riêng
với tôi, tôi phải thú
thật khi đọc bản văn đến câu
Thượng Đế là khối điển quang...
lòng tôi tràn ngập
mối tình mến yêu bát
ngát, mà khi đọc chữ
‘energy’ trong bản dịch tôi chẳng
cảm thấy gì nữa.
Điều
cần bàn thứ hai là
câu chú thích về
Khổng Tử. Khổng Tử đại diện Nho, Nho
là Đạo làm người được Cha
Trời năng nhắc đến và nhấn mạnh
sự cần thiết coi như bước đầu
không có không được
để đi đến các bước sau. Vậy
mà chú thích
trình bày Khổng Tử
quá thấp thì người ta hiểu
thế nào được Cha. Không lẽ
Cha đề cao một cái gì tầm
thường như vậy sao. Dịch giả giới thiệu
Khổng Tử mà không
nói đến cái nõn (cơ
cấu) lại chỉ nói đến cái
bì phu do các đời sau
trát vào. Điều này
xảy ra ngoài ý thức dịch
giả. Dịch giả giới thiệu Khổng Tử
đã công thức luân
lý thành tam cương
là quân thần, phụ tử, phu
phụ (tr.210). Vì sự ngự trị của
Hán Nho nên chắc
không ai nói khác
dịch giả hết, nên tôi
bàn đây không
có ý sửa sai dịch giả
mà muốn bày tỏ rằng
đó là Hán Nho.
Hán Nho là Nho đã
sa đọa ra khỏi cơ cấu của nguyên
Nho rồi nên mới nói tam
cương là vua tôi, cha con,
chồng vợ, còn nếu theo Việt Nho
thì sẽ nói vợ chồng, cha
con, vua tôi. Vì có
nói vợ chồng (vợ trước chồng)
thì mới hợp nét song
trùng uyên nguyên
là âm dương (âm trước
dương), âm trong dương
ngoài (nữ nội, nam ngoại)
tình lý tương tham
(tình trước lý) nhà
nước (nhà trước nước) tu
thân, tề gia trước trị quốc
bình thiên hạ... Nếu chỉ
có cái thứ tự suông
thì không đáng
bàn, đàng này
cái thứ tự khác kéo
theo một tinh thần khác hẳn tức
Hán Nho đổi thứ tự đó
vì đã lây phải
óc du mục: lấy mạnh hiếp yếu, đề
cao tù trưởng, ông vua,
đẳng trưởng, nên đổi tam cương
cân đối có âm
có dương ra tam cương đực rựa
là quân thần, phụ tử, phu
phụ. Vậy là đánh mất tinh
thần Việt Nho rồi còn gì,
nó ở tại câu “dân
vi quý, quân vi khinh”.
Tức dân trước quân: đặt
quân lên đầu thì
đâu còn “quân vi
khinh” nữa. Thế mà đấy mới
là đợt luân lý
xã hội.
Nếu
nói đến đợt triết lý
thì sự sai mới lộ hẳn: tức lấy
phần rất tuỳ phụ để định tính một
đạo lý, y như nói Vô
vi là đạo “di đà do
ông Tám” vậy, Vô vi
đâu phải vậy, Nho cũng thế
nó không là tam
cương xã hội mà là
tam cương đạt đức là: trí,
nhân, dũng và không
còn là ngũ luân nữa
(vợ chồng, cha con, vua tôi, huynh
đệ, bằng hữu) mà phải là
ngũ thường là nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín. Sau lấy chữ
nhân thay cho tam cương và
chữ nghĩa thay cho ngũ thường
thành ra nhân nghĩa.
Đó là cái khung
uyên nguyên gọi là
Tam tài, Ngũ hành rồi sau
thể hiện vào các bộ tam
và ngũ ứng dụng, trước hết được
huyền sử hoá thành:
Tam Hoàng (thay cho tam
cương)
Ngũ
Đế (thay cho ngũ thường)
Rồi Hán Nho lại lịch sử
hóa thành:
Tam Vương (Hạ, Thương, Chu)
Ngũ
Bá (Tề, Tấn, Tần, Việt, Sở). Rồi
còn sa đọa hơn nữa thành
ra bộ ba tam cương xã hội của
Hán Nho: quân thần, phu tử,
phu phụ.
Cuối
cùng đốc ra cái tam hạng
bét là bộ Tam tòng
tứ đức để hạ đo ván đàn
bà. Bộ ba cuối cùng
này sai cả đến từng chữ. Tam
Hoàng làm chi có
tam tòng. Âm đi trước dương
chứ âm có tòng dương
đâu. Ngũ thường đổi ra tứ đức: từ
5 xuống 4 mất đi một chân rồi.
Đấy, Hán Nho trình
bày Nho như vậy đó. Khiến
từ 20 thế kỷ nay hễ nói đến Nho
là người ta nghĩ ngay đến tam
tòng, tứ đức hay khá hơn
là tam cương xã hội
mà không động gì đến
cái cơ cấu của nó,
thì đó chỉ là giới
thiệu Nho với cái tầm gửi đợt ba.
Như vậy thì làm sao hợp
với Nho chính tông,
làm sao người ta hiểu được tại
sao triết học hiện đại đang đề cao Nho
cách long trọng.
Bên
ngoài là việc hội nghị
triết học quốc tế chọn Khổng Tử giữ đũa
nhịp của nhạc trưởng để điều khiển bản
hòa tấu đang hình
thành giữa Đông Tây,
cũng như giữa đạo đời.
Bên
trong là việc Cha Trời giao
phó cho Nho đứng đầu trong nhiệm
vụ thực thi Cơ Quy Nhất. Tức cả trong
lẫn ngoài đều hợp nhau đề cao
Nho. Đó quả là một vinh dự
tột cùng không nền triết
nào được hưởng. Tại sao Nho được
như vậy? Thưa vì đó
là nền triết đạt được chữ
Thái Hòa nghĩa là
hoà cùng cực cả trời cả
đất, cả quỷ lẫn thần, cả nam lẫn nữ vậy.
Điều
thứ ba đáng nói tới
là chú thích 36
(tr.221-222) về “Lục tự Di Đà”
có chứa mấy điều làm người
đọc phải ngạc nhiên tại sao dịch
giả đã bỏ công dịch quyển
Chơn Lý, tức đã suy
xét cân nhắc từng lời một,
vậy mà còn nói mấy
điều trái khoáy như sau:
Thứ
nhất về việc niệm Lục Tự bằng âm
Việt, dịch giả viết “It is important to
know this fundamental and universal
notion”.
Ôi
làm chi có chuyện nền tảng
với phổ biến. Đó chỉ là
phương pháp của một vài
đạo pháp như Kundalini Yoga
thí dụ, chứ có phổ biến
và nền tảng đâu. Nếu nền
tảng và phổ biến thì hết
mọi pháp đều phải có
và có y như nhau cả về số
chữ, lẫn âm thanh. Thế mà
nhiều đạo pháp không
có cả đến niệm, chứ đừng
nói đến âm, còn
tên Ngọc Hoàng lại chẳng
có số nào nhất định. Vậy
Lục Tự di đà chỉ là một
kiểu riêng của một số phép
nên chỉ là nét đặc
trưng chứ không phải nền
móng. Vô vi đã đặc
trưng hóa bằng bớt đi một
luân xa còn có 6
(trong Yoga có 7) còn
âm thì trong Sanskrit
có tám là “Na
mô amitbaha budha”. Đây bỏ
hai chỉ còn 6 âm.
Thứ
đến sao lại đưa Tây Tạng ra
làm thí dụ về sự hiệu
nghiệm? Viết như vậy là theo lối
tu học mà không theo
trí học. Tu học lấy tin
làm nền, bất cứ cái
gì trong đạo nói đều cho
là thật, còn với
trí học phải có bằng
chứng. Nói là hiệu nghiệm
mà mấy người được tin là
đắc đạo bên đó có
đưa nổi bằng chứng khách quan
chăng. Ai cũng biết sự hiệu nghiệm của
một pháp còn tuỳ thuộc
phần lớn vào sự tinh tấn cũng như
lòng thành khẩn của người
tu, tức là phần chủ quan tham dự
rất nhiều trong sự hiệu nghiệm,
nên trí học không
dám trưng phép nọ kia hiệu
nghiệm làm thí dụ để kết
luận.
Về
sự phân biệt tu học với trí
học, dịch giả tỏ ra chưa để ý đến
chẳng hạn câu 17 Cha nói
“triết lý các tôn
giáo” mà dịch là
“religions and philosophics” là
không đúng. Đó
không là triết lý
đúng riêng mà chỉ
là triết lý về tôn
giáo, tức một thứ thần học tuy
cũng có suy luận kiểu triết nhưng
lấy các huấn lệnh tôn
giáo làm định đề,
nên không là triết
mà chỉ là một khoa minh
giáo, một khoa tìm
cách bàn rộng hay
là “một biện chứng” theo nghĩa
tìm lý lẽ để bênh
vực cho những điều đã được
tiên thiên trước kia.
Nói vắn tắt đó chỉ
là tu học chứ không
là triết học. Chính
vì triết nói gì
cũng kiểm chứng, hoặc kiểm lý
được nên người đời coi trọng triết
hơn tu học nhiều lắm. Trong câu
sau Cha không nói triết nữa
mà chỉ nói “các
tôn giáo chỉ đứng một
khía cạnh để nhìn một
khía cạnh khác”.
Chứ Cha không nói
các triết học, tuy triết học hầu
hết cũng nhìn một chiều, nhưng
có một số biệt lệ mà trong
đó Việt Nho nổi nhất ở chỗ đấy
thật xa lối xét cả hai chiều.
Người thí dụ được Nho định nghĩa
là “quỷ thần chi hội”,
vạn vật cũng đều nói có
âm, có dương, có
tĩnh có động... Sở dĩ xét
về mặt kiểm soát được thì
tu học thua trí học, là
vì tu học dựa trên điểm
và lòng thành.
Có lòng thành
thì tà cũng ra
chánh. Sách viết luộm
thuộm chẳng ra gì mà những
người tu bảo nhau đọc vì
“có điển”, thế là mọi
người quý hóa, nền
móng của tu học ở chỗ đó.
Với trí học thì
khác, nó không
xét có điển hay
lòng thành, mà chỉ
xét lời nói có hợp
tình hợp lý chăng, trước
sau ăn chịu với nhau ra sao: nói
sai vẫn là sai không
vì cãi được, mặc dầu
“có điển”.
Thứ
ba câu kết “it made of necessity
to follow the Vietnamese phonetic”. Viết
câu này dịch giả tỏ ra chưa
hiểu rằng ‘Kumdalini’ chỉ là một
đạo pháp hạng thấp vì
còn quá lệ thuộc
vào thanh sắc đến độ nguy hiểm.
Khỏi cần đọc rộng, chỉ cần suy nghĩ
câu 22 Cha giảng rất rõ về
chính niệm ra sao, tất sẽ
không còn “dám” viết
câu trên nữa.
Tôi
nói “dám” vì
câu viết tỏ ra dịch giả coi trọng
ông Tám hơn Kim Thân
Cha. Đó là “tội phạm
thượng” do ảnh hưởng rớt lại của tội
liệt vị của Phật giáo đã
coi Phật cao hơn Trời. Tôi đặt chữ
“dám và tội” trong ngoặc
vì hy vọng ý thức dịch giả
không hề nghĩ cũng như không
ngờ như vậy. Nhưng cần phải nói
ra ở đây là quyển Chơn
Lý vượt quá mức trí
học và khả năng hiểu biết của
ông Tám nên ít
bạn đạo hiểu được các âm
vang của quyển Kinh. Nhưng những ai muốn
dịch nên hiểu rằng Vô vi ở
đợt ông Tư, ông Tám
chỉ thể là một đạo pháp
địa phương, chưa đáng được thức
giả chú ý chứ đừng
nói đến kính nể,
còn nay được kính nể ngay
trong giới trí học và
có tầm vóc lan rộng ra
quốc tế, chính là nhờ
quyển Chơn Lý và hiện
tượng Đức Kim Thân. Cho nên
dưới con mắt trí học cái
“tội phạm thượng” tuy vô
tình kia cũng rất đáng lưu
ý để tránh tái
phạm.
XI. Phương
pháp công phu
Phương
pháp công phu in sau
đây trích nguyên văn
từ quyển Vấn Đạo (Hội Ái Hữu
Vô Vi 1982) chỉ có
vài điều liên can đến lời
nguyện và niệm được sửa đổi. Lời
nguyện đây không phải
là cầu nguyện gì cho
mình, nhưng trước hết là
lời chào lạy đấng Cha
lành. Sau là nhắc lại
lý tưởng và quyết
tâm tu sửa mình để tu cho
được tinh tấn, thường gọi lý
tưởng đó là đại nguyện.
Cuối cùng là cầu cho vạn
vật thái bình, cũng như
cầu cho cha mẹ tổ tiên, họ
hàng xa gần (gọi là cửu
huyền thất tổ) được thức giác về
sự cần thiết phải tu.
Lời
nguyện thường cũng là lời niệm.
Kim Thân Cha đã cho
phép những người ngoài
Phật giáo không phải niệm
Phật. Chúng ta nên thống
nhất và quyết chí niệm
danh Cha, và nên coi
đó như là lời niệm quốc
tế. Vì số người không theo
Phật giáo sẽ ngày
càng đông và phải
đông hơn, phải mở rộng ra quốc tế.
Và lời nguyện đó cũng
là hợp cơ quy nhất hơn: muốn trở
về một gốc thì cũng nên bắt
đầu niệm một lời như nhau, đó
là niệm Cha, Danh Cha có
nhiều nhưng thường dùng hơn cả
là câu:
KÍNH
LẠY NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÔ
CỰC ĐẠI THIÊN TÔN. Hoặc
KÍNH
LẠY CHÚA TỂ CÀN
KHÔN. (câu này
sáu chữ dành cho những ai
thích lục tự hoặc dùng khi
mật niệm bát chính).
Chữ
Kính lạy cũng cùng nội
dung như chữ Nam-mô. Thiết nghĩ
nên tránh chữ Namô
vì nó gắn liền với Phật
giáo quá lâu đời.
Cha ban Vô vi qua người Việt
thì dùng tiếng Việt
là sự hợp lý, nên
đã rộng phép cho
các người không theo Phật
giáo muốn nguyện và niệm
sao cũng được. Tuy nhiên,
vì niệm là có
ý nối tiếp việc thiền, tức tập
trung tâm trí vào
Cha, nên lời niệm phải vắn tắt,
đọc một kinh không phải là
niệm nữa, vì trí đã
lan ra rộng bằng cả một kinh: đó
là mở đường rơi vào
cái tật “tâm viên
ý mã”. Lời niệm phải
là một danh xưng mà
thôi. Lão giáo gọi
là “thủ nhất”. Cha ông ta
xưa chỉ kêu một tiếng Trời. Thiết
nghĩ đó chính là
lời niệm của đạo Việt. Vậy nên đọc
một kinh dài cũng ví được
như niệm nhiều tên Phật sẽ
đâm ra chia trí nhiều ngả.
Về việc niệm xin đọc quyển Chơn
Lý nhất là câu 32
(như sẽ trích vài đoạn
trong phụ trương II). Xin đọc lại nhiều
lần để sau này khi gặp trong
nhiều sách Vô vi thấy nhiều
kiểu niệm bạn khỏi hoang mang. Cứ tin
vào lời Cha là yên
trí mọi đàng, khỏi cần
thắc mắc. Còn những lời niệm Di
Đà, Quan Âm, Di Lạc
là tạm mượn lúc đầu,
vì các người tu hầu hết
theo Phật giáo. Nay Vô vi
mở rộng thì nên chọn lời
niệm Cha để tránh những
khó khăn cho những người
ngoài Phật giáo.
XII. Bàn
thêm về hiện thực
Pháp lý
Vô vi được coi là một lối
tu tắt, nhiều người đạt ẩn chứng
có thể nói là mau
lẹ. Không cần giải nghĩa bằng
mặt Vô vi huyền bí,
mà chỉ cần cứu xét mặt
hiện tượng hữu vi cũng đã thấy
được lý do.
Một vì đưa
trên sự “tự tu tự tiến” cao độ,
gạt bỏ mọi sự cầu phù hộ, chứng
tỏ đã tới gần nguồn cuối của
đấng Tự Hữu, nên kể là
giai đoạn chạy nước rút.
Thứ đến là
ý thức sâu sắc về những
tác động, vì bỏ hết mọi
rềnh rang bên ngoài: tổ
chức, miếu mạo, cúng vái
để tâm trí được dồn trọn
vẹn vào đường tu, nên
hiệu nghiệm dễ thấy mau hơn.
Thứ ba là
ráo riết tận cùng, thi
hành đúng theo câu
“quân tử vô sở bất
dụng kỳ cực”: người quân
tử làm cái gì
cũng ráo riết tới chỗ
cùng tột mới thôi.
Xét riêng về mặt
này thì ta có thể
nói Vô vi là
cái xe lắp toàn những bộ
phận tốt nhất: tự soi hồn, pháp
luân cho đến thiền định, tất cả
đều rốt ráo. Trong bài
này tôi muốn nhấn mạnh
đến điểm nọ.
Trước hết là
lời nguyện. Bạn có thể bỏ lời
nguyện và niệm, vì thiền
là một phương pháp tự
nhiên, có thể hiện thực
theo lối khách quan kiểu khoa
học, như nhiều đạo pháp thiền
mà không có nguyện
hay niệm gì cả. Điều đó
không có chi trái
để phải phê phán.
Còn Vô vi có
nguyện có niệm vì
đây là một đạo
pháp kép, kết hợp cả
tôn giáo với thiền, cho
nên thêm được phần
thành khẩn cùng cực:
vì lời nguyện và niệm
làm nổi bật mối liên hệ
giữa ta với Cha Trời và Mẹ Đất,
khiến cho việc thiền thêm chiều
kích thâm thiết,
giúp rất nhiều vào việc
huy động toàn bầu tâm
tình tha thiết đổ dồn
vào tu luyện, khiến cho việc tu
luyện dễ thành tựu hơn.
Vả trên đường
tu tiến tới một lúc nào
đó con người thế nào
cũng sẽ cảm thấy mối tình bao
la giữa mình với Cha Trời, hiện
thực mối tình đó
chính là nòng cốt
tôn giáo. Vì thế
mối tình này được hiện
thực trong Vô vi thì chỉ
là thêm một chứng từ
nói lên tính chất
Việt Đạo, vì tổ tiên ta
vẫn gắn bó với Cha Trời
cách thâm sâu
cùng cực: động tí
là kêu trời. Xưa kia
nhà nào cũng có
bàn thờ Trời. Đến nay Trời được
đưa vào Vô vi bằng
hình thức nguyện và niệm
thì đó là
cách thờ Trời đã thăng
hoa, đó quả là tôn
giáo đã tinh lọc đến cao
độ. Bởi thế ta hãy để hết
tâm tình vào lời
nguyện, nguyện cho thực sốt sắng, cho
thực chí tình cũng như
kéo dài lời nguyện bằng
việc thường niệm, vô biệt niệm,
để gia tốc đà tự tu, tự tiến
của ta.
Sau lời nguyện
là đến soi hồn. Cặp từ nghe
có vẻ lạ tai nhưng thực ra chỉ
là một cách nói
lên khía cạnh cùng
tột trong sự đoạn lìa ngũ quan
xem, nghe, cảm, nếm, ngửi đều phải
dừng lại trong một lúc để
có thể dồn tất cả tâm
trí vào cái đầu.
Vì đầu có xuôi
đuôi mới lọt. Xuôi
đây phải hiểu theo đạo trống,
tức phải làm cho trống rỗng
tâm trí, gọi là
“trai tâm”: tâm tư phải
chay tịnh, không để cái
chi dính bén lại trọn
đó đặng dọn chỗ cho Linh
Thiêng xuất hiện. Vì thế
xưa nay đạo Việt luôn chú
ý đến cái đầu, nay
Vô vi cũng làm như vậy
với tính cách ráo
riết cùng cực, bịt tai, mắt,
tinh để dồn tâm trí
vào một điểm. Điểm đó
có thể là tam tinh hay
là đỉnh đầu tuỳ đàng
nào người tu thấy dễ thì
chọn. Làm như vậy cách
ráo riết thì có
thể cảm tưởng như mình
lái chiếc phi cơ phản lực mũi
nhọn đang bay vút lên
các tầng cao, khiến mình
cảm thấy sự rốt ráo của
tác động, cũng như đà
gia tốc của sự tự tu tự tiến. Nhờ mấy
cử động đó ta thấy dễ thi
hành sự ly lìa trần cấu
để dồn trọn vẹn sinh lực vào
việc siêu thoát.
Có lẽ vì vậy mà
được đặt tên là
phép soi hồn, như thể
nói hồn xưa nay bị để lẫn lộn
với xác thân, lẫn lộn với
bao sự trần cấu uế tạp, nay được luồng
sáng của tâm trí
soi vào làm nổi bật
lên trên nền trời
tâm linh để sẵn sàng bay
lên cao mãi.
Sau “soi hồn”
thì đến thở. Thở cũng là
một tác động rất ơn ích
cần làm rất thong thả và
tập trung cùng cực,
chính sự thong thả giúp
vào việc tập trung và do
đó mà có sự
khác nhau trong các
pháp, nó ở tại tỉ lệ
hít, nín, thở. Yoga
thường nín hơi lâu gấp 4
lần thì giờ hít
vào. Nhịp thường và thấp
nhất là 3-12-6 (hít 3,
nén 12, thở 6). Nhịp trung
bình là 16-64-32.
Vô vi thì bỏ hẳn đoạn
nín để cho hít và
thở nối tiếp liền như bánh xe
lăn không ngừng lại. Vì
thế gọi là pháp
luân. Không nín sợ
hơi nín lâu quá
có thể đánh thức
làn hoả hầu sớm quá
gây ra tẩu hỏa nhập ma. Điều
này cũng có lý,
nhưng tẩu hỏa nhập ma còn xảy
ra vì nhiều lý do
khác nhau như do bộ đầu chưa
được khai thông (bằng soi hồn
khai thông thì đã
tránh được nguy cơ quá
nửa). Vì thế thiết nghĩ những
ai muốn cũng có thể nín
hơi ít lâu để kéo
dài nhịp hít thở hầu đạt
được sự thong thả hơn. Vòng
pháp luân của ông
Tám kéo dài đến
90 giây. Người mới tập nhiều lắm
40 giây, nên thêm
tác động nín thí
dụ 20 giây nữa thì đạt
60: theo nhịp 2-2-2. Đó
là 2 nhịp không có
hại gì mà vẫn
giúp kéo dài nhịp
hít thở. Vì nín
cũng bằng hít với thở
không thể gây tai họa
gì.
Có người
công kích lối thở
luân xa nhưng đó
chính là nhịp thở tự
nhiên: tức hít thở liền
nhau không có gì
đáng công kích cả.
Nó chỉ khác thở thường ở
chỗ chậm rãi, sự chậm được rải
đều trên các bước tiến
của nhịp thở. Tuy nhiên tập
luyện được như vậy có thể
là rất khó cho một số
người vì thế mà
có phép thở nằm gọi
là chiêu minh đưa ra để
tập thở trước. Thở nằm là cốt
cất mọi trở ngại bên
ngoài, hãy dồn trọn
chú ý vào việc
thở. Sự ý thức này
còn được gia tăng bằng
cách đếm các
vòng. Thở đúng theo số
các vòng 12, 11,
10...là lấy chú
tâm đệm vào nhịp thở, lấy
sự nhận thức mà tẩm nhận
khí thở ra hít
vào, làm cho nó
tự đợt sinh lý vươn lên
đợt tâm linh: biến ra thanh
điển. Cho nên càng thở
được nhiều càng hay. Có
bạn đạo không dùng nhiều
phép chiêu minh,
vì hay ngủ mất, hoặc thấy
không mạnh bằng thở pháp
luân, nên thay vào
bằng phép thiền thở. Nghĩa
là sau giờ thiền thay vì
lên giường làm
chiêu minh thì ngồi lại
thở pháp luân. Thở một
quãng 5 hay 10 phút thấy
mệt thì xả, rồi nghỉ
chút đoạn thở như trước, rồi
lại xả. Có thể làm như
thế 1, 2 lần cho tới cả chục lần.
Tôi thấy sáng kiến
này hay, thở như vậy đã
không sợ ngủ mất mà
còn mạnh hơn chiêu minh.
Và nhất là hôm
nào cảm thấy thiền quá
nặng không thể định trí
được thì có thể xả, rồi
quay ra thở kiểu trên bù
vào. Như vậy hiện thực tối đa
được bước quan trọng thứ hai là
thở. Sau khi đã tập khá
quen chiêu minh thì đến
chính thiên. Đây
mới là phần quan trọng nhất,
thành công hay
không phần nhiều ở đây.
Vì thế nhiều pháp chỉ
có thiền mà không
có thở và soi hồn. Thiền
là định thần, tức đưa tâm
trí vào một vật
gì, mà chỉ nghĩ
luôn đến vật đó,
thí dụ để hết cả tâm
trí lên đỉnh đầu, nghĩ
đến cái trống rỗng, có
thể có màu sáng,
xanh, đỏ, hay đen. Nhưng cứ giữ như
thế được càng lâu
càng tốt, không nghĩ đến
cái khác. Đó
là việc cao quý nhất
được làm cách trọn hảo
hơn hết. Cao quý nhất vì
là việc quy hướng về nguồn cội
được ý thức cao độ. Còn
được làm cách trọn hảo
nhất và quy hướng trọn
thân tâm không cho
những gì chia trí xen
vô. Đó gọi là
Định. Nghe nói Phật đạt đại
định hãy tạm cho là 3
giờ (còn 2 giờ là trung
định, 1 giờ là tiểu định). Ta
nói tập thì chỉ mong
được 3 phút, rồi 5 phút,
rồi 9 phút lên dần dần
chưa biết bao giờ mới tới được một
giờ. Cứ thử đi rồi sẽ thêm
lòng kính nể ông
Phật hơn rất nhiều. (1)
(1) Đặc san Vô
vi 83 trang 65 có kể về
bà Trương Thị Mật 36 tuổi ngồi
thiền đã 10 tháng liền,
không ăn uống, không
tiêu tiểu, mà thần sắc
vẫn tự nhiên. Nếu có thực
thì quả là siêu
đại định.
Sau đây xin
giới thiệu một phương pháp quen
thuộc trong Yoga giúp rất nhiều
cho những nguời mới bắt đầu.
Pháp này đã được
công nhận là rất hiệu
nghiệm có thể gọi là
tinh hoa của thiền, đó
là “Phép nghỉ
toàn diện”, cũng gọi là
xả (sawa-sana) đã có
bàn trong quyển Tâm Tư
(tr.66-69). Nay xin nói lại ở
đây để những người mới tập
có thể thử. Xả là
có ý tập luyện
giúp cho dễ đạt được sự trống
rỗng tâm hồn để không
còn vương vấn gì đến
việc đã qua hay sắp đến,
có thể gọi là nghỉ
toàn diện. Thường ta gọi
là nghỉ khi thôi
làm việc, khi đứng không
hay ngồi, hoặc cả nằm nữa. Thực ra
đó mới chỉ là nghỉ được
một phần tư trong con người. Vì
trong lúc ấy trí mường
tượng vẫn chạy lung tung, làm
cho cân não căng thẳng
lên một nửa, thần kinh cần phải
lao tác.... Vậy là
đã nghỉ toàn diện
đâu. Muốn nghỉ toàn diện
phải dùng tư thế xả như sau:
Nằm ngửa trên
giường hoặc phản hay ghế, đầu để
sát giường, nếu có gối
thì chỉ kê cao một
chút, nếu nằm theo hướng Bắc
được thì càng hay cốt để
theo chiều từ trường của trái
đất, vì nằm ngược từ trường
cũng làm tốn một ít sinh
lực. Tay chân duỗi ra, úp
hai bàn tay xuống giường, thả
mọi gân cốt cho chảy ra hết như
không còn thể vâng
lệnh của ý muốn nữa. Đó
rồi xua hết mọi ý nghĩ ra khỏi
ý thức, hễ một ý
nào vừa ló diện liền xua
đi tức khắc. Có thể để
trí vào gốc mũi, chỗ
giữa hai lông mày gặp
nhau. Còn thân thể
thì cứ thả cho giãn hẳn
xuống. Cần sao cho thực sự cảm thấy
mình mẩy chân tay
dính đét xuống giường.
Muốn chóng đạt cảm xúc
đó nên đem trí
khôn qua từng phần thân
thể, cách rất thong thả: hết
tay rồi chân, thí dụ
trước hết đưa trí vào
tay tả, tưởng tượng từng đoạn một từ
tay trở ra, từ từ đưa đi cho đến
ngón tay để thấy tất cả như
chảy ra, dính đét xuống
giường. Hết tay tả thì đưa
trí sang tay hữu, rồi hai
chân, đến lưng, cổ và
nhất là mặt. Thường gân
mặt hay co lại nhất là khi nhăn
nhó, cau có, vậy cần
làm cho thật giãn ra,
cũng đưa trí khôn đi từ
phần: hết má đến miệng đến
trán, nhớ là làm
thật chậm rãi. Khi đã
thành công thì cảm
thấy như tê liệt, dính
hẳn xuống giường đến nỗi muốn chỗi dậy
lập tức không được. Có
người vài tuần đã tập
được phép nghỉ này,
có người phải từng tháng
mới quen, lâu mau tuỳ người. Sau
khi để tê liệt hết lại đưa
trí đi kiểm soát lại cả
thân mình một lần nữa sao
cho thật tê rồi trở về vị
trí cũ ở gốc mũi, nơi
nhà khác tượng Phật quen
điểm con mắt thứ ba gọi là Huệ
nhãn và để đó rất
lâu, lúc này việc
để trí dễ hơn lúc trước
rồi nên cố để cho lâu.
Chính việc để trí
khôn vào điểm Huệ
nhãn có một sức an nghỉ
lạ thường nên nhiều người cho
là phép linh
thiêng, sự thực đó chỉ
là một cách giúp
cho lập được thế quân
bình tâm trí hiệu
quả.
Phép xả
này giúp lấy lại sức rất
mau. Cả một ngày làm
việc mỏi mệt mà xả theo lối
này thì chỉ cần 15
phút lấy lại được sức khoẻ như
thường. Người mất ngủ một đêm
cũng chỉ cần xả một khắc là
đã đỡ mệt. Trước khi ngủ
mà xả thì dễ ngủ hơn,
không mơ hay mơ rất ít,
ngủ 3 tiếng khoẻ bằng ngủ 7 tiếng.
Phép này ảnh hưởng rất
nhiều đến việc an trụ tâm
trí, vì khi gân
mạch giãn ra thì
tình tự buồn vui tức bực dễ hạ
hẳn xuống, nên giúp rất
nhiều cho việc gỡ khỏi sự bám
víu vào những cái
hiển nhiên theo lưu tục
là điều tối quan trọng cho
những ai muốn suy tư rốt ráo.
Sau khi đạt trạng thái
toàn thân chảy ra
trên giường, ta có thể
đưa trí nghĩ đến một vật
nào đó để trọn tâm
trí vào vật nọ.
Đây là bước đầu của định.
Nên chọn vật càng đơn sơ
càng tốt: cái
bút, lọ mực, hòn bi,
cái vòng đeo tay, hay
cái nhẫn. Nhìn
mãi một vật bạn sẽ có
cảm tưởng không còn
nhìn vật đó nữa.
Đó gọi là quan. Quan
là nhìn mà
không nhìn (hiểu
là không nhìn
cái gì) cốt dồn
tâm trí vào
tác động, mà không
chú ý đến đối tượng.
Làm như vậy là bước
lên một bậc gọi là Đạo
trống. Trống rỗng tâm hồn.
Đấy là một
vài cách rồi bạn sẽ xem
các sách về thiền để
thấy nhiều cách khác.
Phương cách nào hợp với
bạn hơn cả, giúp bạn
thành công hơn hết
thì chọn phương cách ấy.
Hễ thấy tốt nhất cho bạn là
được. Sau khi đã tập quen
phép này thì đi
đến chú ý trọn
vào đỉnh đầu dễ hơn. Dồn cả
tâm trí, cả răng cả lưỡi
tất cả quy tụ vào đỉnh đầu để
cố gắng định.
Tập luyện ít
lâu có thể gặp thấy hiện
tượng nọ kia: thấy điển trên
đầu, hoặc thấy màu sắc
này nọ hoặc cả đến “xuất
vía, xuất hồn”, xin nhắc lại
là hãy vui mừng
đón nhận coi đó như bảo
chứng của sự tu luyện là bạn
đã có được sự
thành khẩn, tinh tấn thì
mới có được như vậy.
Không cần xét thật hay
giả, tà hay chánh.
Chánh tà ở tại
mình. Nếu như thấy thế
mà mình càng gia
công tu hành tinh tấn hơn
thì tà cũng giúp
mình như chánh.
Còn nếu thấy xuất hồn rồi
nhân đó đi coi chơi hết
cõi này, cõi
khác thì đó
là “bản đồ nhi phế”. Tâm
trí chỉ mong có vậy để
khỏi khép mình
vào kỷ luật: là trong
một lúc chỉ làm một việc
chứ không được chạy rông
đi coi khắp hết. Vậy chớ quan trọng
hóa những hiện tượng xảy ra,
chớ lấy đó làm thước đo
độ thành công cao hay
thấp. Hãy coi đó như
những kinh nghiệm bản thân
riêng biệt chỉ thực cho
mình, nó có
tính cách chủ quan. Đừng
đem lòng chờ trông mong
đợi. Nếu xảy đến thì hay,
không xảy đến chẳng sao. Tiến
với không tiến không ở
những thứ đó.
Hãy cố tu cho
chuyên cần, còn tu thật
trúng cách cũng phải cố
gắng làm cho được nhưng
nên nhớ có được
càng hay, không cũng chưa
quan trọng bằng tinh tấn bền
lòng. Vì phương
pháp vô số, nhưng tất cả
đều đòi phải tinh tấn. Vậy phải
cố gắng: đó là chữ dũng.
Nên biết rằng không một sự
cố gắng tu luyện nào là
không ghi thêm ơn
ích cho ta. Chớ nghe ai bảo hết
điển là ngừng thiền. Đó
là xúi dại. Phải tinh
tấn luôn luôn: cả những
lúc khô khan càng
phải thêm tinh tấn. Cố
kéo dài giờ thiền ra 45
phút, rồi một giờ, một giờ mười
lăm phút... không hơn
được thì ngày thiền hai
lần, ba lần. Con đường tiến hóa
tiến vào cõi thần linh
dài vô biên “nhậm
trọng nhi đạo viễn”. Cao cả nằm ở
đó.
Trong quyển “Phong
thái an vi” tôi đã
minh chứng rằng con người yếu
hèn, trần trụi hơn vạn vật:
thua tự con kiến trở đi. Con kiến hiểu
được các điềm triệu báo
trước về bão lụt, chứ con người
thì chưa. Vậy con người
khác con vật chỗ nào?
(nói khác chứ
không dám nói
hơn). Thưa khác ở chỗ
cái gì cũng tự
làm lấy hết: từ miếng cơm manh
áo cho đến các
tài nghệ. Tất cả đều tự học từ
con số không. Rồi lâu
ngày nhiều người tìm
tòi tích luỹ kinh nghiệm
mới làm ra được, thí dụ
con chim biết bay ngay tự đầu, con
người không những phải kế tiếp
nhau học lâu lắm mới biết bay
tàm tạm (chết vì bay
cũng bộn). Con tò vò
biết tiêm tự thưở nào.
Con người lần mò mãi mới
biết. Vậy mà mỗi người
còn phải để công sức
vào đó để học, học
quá ư là học cho tới
quãng 30 tuổi mới đỗ y sĩ.
Nhưng thôi cứ kể cho là
con người biết tiêm đi. Biết
tàm tạm, nhưng đặc biệt
là biết tự tìm ra
tiêm, tự mình tìm
ra bay... Việc nào cũng vậy tự
làm ra hết. Trời cho sẵn
có chút xíu,
còn toàn phải tự tay
làm ra.
Nhưng đó
là chỗ con người khác
con vật, và đó cũng
là chỗ con người giống Trời hơn
hết. Vì Trời là tổ sư
của đức tự lập. Nói đúng
hơn: tự lập, tự hữu là bản
tính của Ngài. Con người
bị bắt phải tự lập là tỏ ra
đã gần Ngài hơn
các con vật. Đây
là danh dự đặc biệt mà
ta cần nhận thức thật sâu sắc,
để gắng công tu tiến: tự tu, tự
tiến, đừng chờ mong ai giúp,
Trời không giúp
đâu. Vì giúp
là cướp công của ta,
là hạ ta xuống bậc dưới, bậc
mà cái gì cũng
ban ra sẵn cả. Chim sinh ra biết bay,
tò vò chưa học đã
biết chích. Nhưng chích
với bay đâu phải là của
chúng tự tay nhà
làm ra. Con người phải ý
thức như vậy. Phải biết mình
đã lên bậc cao rồi, tay
nhà làm ra được rồi.
Việc nào cũng vậy, kể ngay tự
việc ăn làm thường nhật, huống
chi đến những việc cao hơn thuộc
lý trí, hay tâm
linh thì càng phải tự
lực cánh sinh hơn nữa. Phải tự
làm mới tiến, càng tự
lực bao nhiêu, tự lực cho tới
chỗ ý thức được từng tác
động của mình thì
càng tiến mau. Thiền
không là việc gì
đặc biệt cho bằng là làm
công việc thường ngày
cách đặc biệt, làm với
tất cả tâm trí để trọn
vào đấy, đến nỗi ý thức
được từng cử động. Thí dụ thở
có ý thức đi kèm,
như cảm thấy được hơi thở chạy
vào gân mạch thì
đó là thiền, “quân
tử vô sở bất dụng kỳ cực”
là thế.
Nhưng sức ta
có hạn thì làm
thế nào? Đừng nói trong
một ngày thiền hai ba thời,
ngay một thời cũng mệt lắm rồi,
kéo dài được 45
phút hay một giờ tưởng
đã lâu bằng cả thế kỷ.
Làm sao mà kéo
được hai giờ, làm sao mà
thiền ngày ba thời cho được?
Thưa hãy làm đến hết chỗ
của mình. Ở đây ta được
Cha Trời chỉ cho một phép để
nối dài việc thiền định
đó là “niệm Cha,
thường niệm vô biệt niệm”:
ngày đêm, đi, đứng, nằm,
ngồi... hễ nhớ đến là niệm. Với
pháp niệm này ta
có thể bù vào
những sơ hở hay cả cả những thiếu
sót trong chính
lúc thiền, bù một
cách hết sức linh nghiệm. Cha
Trời nói: “Khi các
con trụ tâm tưởng nhớ đến đấng
Tạo Hóa muôn
loài, tiểu hồn con sẽ rung
động, linh quang con sáng
lên, gửi tín hiệu
liên lạc với Đại Hồn Cha.
Và nếu khi ấy con biết
quán tưởng sự hợp nhất của
con với Đại Hồn Cha thì điển
quang của con sẽ hoà
vào với khối Đại linh quang
của Càn Khôn. Nếu con
biết hành điều này
luôn luôn và
tâm tư con lúc
nào cũng tưởng nhớ hợp nhất
với Thượng Đế, tất nhiên tiểu
hồn con sẽ mau được sáng
suốt, sẽ tiến hóa nhanh đến
chỗ hợp nhất với Thượng Đế, trở về
cội nguồn của mọi cuộc sống.”
(Chơn Lý
câu 22, nên đọc rất kỹ cả
5 trang câu này)
Kính Lạy Ngọc
Hoàng Thượng Đế Vô Cực
Đại Thiên Tôn.
VÀI
PHỤ TRƯƠNG ĐỂ BUÔNG SÔNG
Muốn
cho việc giới thiệu vô vi với
người không theo Phật giáo
được xuôi chèo mát
mái.
Muốn
cho vô vi mai ngày
có chỗ đứng ở hàng
lãnh đạo trong nền quốc học nước
nhà.
Muốn
cho vô vi được tiếp nhận
cách kính nể vào
nền học thuật quốc tế (ngành
tôn giáo tỉ giáo
cũng như triết học)
Nên
phải nói ra ít thắc mắc
trong hai phụ trương sau. Tuy vì
những lý do nghiêm trọng
như trên nên phải viết ra,
nhưng tác giả vẫn cảm thấy rất
ái ngại. Bởi thế muốn đưa cho dăm
ba bạn đạo đọc trước may ra có
giúp được cách nào.
Thí dụ có cách
nào để đạt điều thỉnh cầu
là chỉ niệm một danh Cha
mà thôi. Không niệm
Phật nữa. Lục Tự Di Đà chỉ
dùng riêng cho những người
theo Phật giáo mà
thôi.
VII. Từ hoang mang thắc mắc
đến “Tôi cười tôi”
“Học
là phải hỏi, phải phê
bình chỉ trích, còn
cứ mê man không bao giờ tiến
bộ”. (Lời ông Tám trong
Tôi Tầm Đạo, trang 225)
Điều
thắc mắc hơn hết của tôi là
vụ Vô vi bắt buộc phải niệm Lục Tự
Di Đà đối với hết mọi người muốn
hành pháp, mặc dầu
không theo Phật giáo. Điều
đó gây trở ngại lớn cho
những người theo tôn giáo
khác: họ sợ niệm như vậy
là phản bội đạo mình đang
theo, hoặc là tự hạ mình
xuống hàng tin theo những dị đoan
mê tín.
Đối
với người dày công
nghiên cứu Phật giáo
thì biết những định kiến kia
là do sự hiểu lầm, chỉ cần gảy bỏ
sự hiểu lầm đi là có thể
chấp nhận niệm Lục Tự Di Đà,
nhưng hầu hết không là
người nghiên cứu, chỉ biết Phật
qua cái bên ngoài
thì việc phải niệm Phật gây
khó khăn tâm lý như
nói trên. Hoặc nữa họ gặp
trở ngại do xã hội, thí dụ
tôi biết nhiều bạn đạo bị gia
đình ngăn cấm hành
Vô vi vì sợ con mất linh
hồn, có trường hợp đi đến cả đập
cassette ra vì người mẹ yên
trí Vô vi là Phật
giáo (mà họ chỉ biết qua
những dị đoan, những tượng Phật xếp từng
hàng trong các chùa
âm u mà chính
ông Tám cũng thấy là
quỷ chúng nấp sau đó).
Nhưng dù sao thực muốn tu cũng
phải ráng vượt qua để niệm Phật
nếu đó là điều cần thiết
không thể thay thế được.
Thế
nhưng Đức Ngọc Đế đã bảo thay
được bằng niệm danh Cha. Hơn nữa
Ngài còn cho niệm Cha
là đúng hơn niệm Phật. Rồi
chính ngay ông Tám
cũng nhận như vậy cho là tiện
hơn, và cho phép người
không theo Phật được niệm những
câu khác. Vậy tại sao đến
sau lại có sự thay đổi lập trường
cho là việc niệm Lục Tự Di
Đà không đổi được (Vấn Đạo,
câu hỏi 32). Ông còn
chống cả Đức Ngọc Đế rằng: “Tôi
không đồng ý cái
đó” (Vấn Đạo, câu 33). Hai
câu quyết đoán trên
khiến tôi giật mình: tại
sao người phàm dù tu cao
đến đâu cũng còn dưới
Thượng Đế vô kể lại đặt
mình trên Thượng Đế bằng
cách chống lại!!! Thế là
lòng quý mến tin tưởng của
tôi đối với ông bị thử
thách rất nặng và từ
đó tôi bắt đầu xét
kỹ các lời khác của
ông, mới nhận ra rằng ông
đã nói nhiều điều bất
nhất, tỏ ra ông còn mắc kẹt
trong đợt thanh sắc, tức còn lấy
danh làm quan trọng đến nỗi
không tên nào thay
thế được tên A Di Đà. Sao
lại có thể như vậy vì cả
pháp còn thay được
(có 84 ngàn pháp)
huống chi là một danh từ, một lời
niệm. Hơn thế “Vô là
không, Vi là cái
gì nhỏ cũng không”
thì danh xưng đâu có
quan trọng. Muốn gọi Thượng Đế là
Ngọc Hoàng, là Allah
gì gì đó nào
có chi can hệ? Đành rằng
đối với ông và những bạn
đạo theo Phật giáo thì Lục
Tự Di Đà tuyệt hay và hiệu
nghiệm thì điều đó rất
đúng, nhưng nó linh nghiệm
là vì đã
thành thói quen lâu
đời của rất nhiều người chứ không
hẳn do danh A Di Đà. Vì
thế thiết nghĩ không nên
tuyệt đối hóa bằng dựng
thành nguyên lý phổ
biến rồi chụp lên đầu cổ những ai
không có cùng một
kinh nghiệm. Thiết nghĩ đó
là điều trái với tinh thần
Vô vi.
Ở
đây tôi nghĩ đến cái
“triết lý gà gáy
sáng” nói “gà
gáy thì sáng”
là câu nói
đúng nếu không không
cần xét thêm gì.
Nhưng nếu hỏi chữ Thì là
gì, nếu thưa là Nên
“gà gáy Nên mặt trời
mọc” là sai. Mặt trời mọc
lúc gà gáy chứ
không phải vì gà
gáy... Cũng vậy Lục Tự Di
Đà hiệu nghiệm là nhờ đi
với ba pháp: soi hồn, pháp
luân, thiền định, chứ buông
ba phép đó ra hỏi
có còn được hiệu nghiệm
như vậy nữa chăng? Trong băng “Giờ
Lâm Chung” một bạn đạo hỏi
ông Tám rằng có
người tu niệm cả đời mà
không biết pháp tu
này thì rồi lúc
chết có được cứu rỗi chăng? Trả
lời rằng không, vẫn phải xuống địa
ngục học lại khóa khác...
Ông
bảo Phật Thích Ca khôn hơn
ông cả triệu lần vì
đã niệm Nam Mô... Câu
đó cũng gây thắc mắc
vì chẳng ai biết được việc niệm A
Di Đà xuất hiện thời nào,
người ta đoán rằng khi có
Đại thừa nghĩa là sau khi Phật
đã viên tịch. Dầu sao
thì bên Tàu việc
niệm Di Đà chỉ phát triển
từ thế kỷ thứ IV lúc nhà
sư Huệ Viễn lập ra môn phái
Tịnh Thổ để tránh cho Phật tử
cái nạn kinh sách
quá nhiều, nên tuyên
dương chỉ cần niệm Di Đà
là đủ, ai niệm được một
ngày cũng sẽ được Phật độ về
Tây phương cực lạc thế giới. Nhờ
sự hứa hẹn đó đi kèm với
lối tu niệm dễ dàng, mà
lời niệm A Di Đà được thiên
hạ theo ào ào từ đấy,
không sao can được nữa.
Nhưng
hãy cho là Thích Ca
có niệm Lục Tự Di Đà đi
nữa thì chắc gì ông
đã đọc chữ Nam (để mà
có âm um) vì tiếng
Phạn là Na-Mô chứ
không Nam-Mô. Ngoài
chữ Nam ra phải nói là cả
câu niệm đó là một
câu lai căng vì phiên
âm sai bét: nếu theo
âm Ấn thì là
Na-Mô amitabha, nếu theo
Tàu thì là
Na-Mô O-Mi-To-Fo, Nhật là
Amidà, chẳng thấy Nam đâu,
Di đâu, Đà đâu cả.
Ta
hay nghe nói Lục Tự Di Đà
là nguyên lý
và cả là triết lý
kỳ diệu, nhưng xét kỹ thì
thấy đó không phải
là nguyên lý.
Nguyên lý phải có
tính chất phổ biến cả trong
công thức lẫn trong công
hiệu: hai điều ấy không có
trong Lục Tự Di Đà như vừa
nói trên. Vậy kết luận Lục
Tự Di Đà không là
nguyên lý, cũng chưa được
phát triển thành triết
lý riêng biệt mà chỉ
là phương trình do
ông Tư hay ông Tám
đặt ra, có hai đợt:
Phương trình đơn:
Nam = lửa
Mô
= khí
A = nước v.v....
Phương trình
kép:
Nam-Mô = soi hồn
A-Di = pháp luân
Đà-Phật = thiền định
Tất
cả bí quyết, tất cả cái
diệu dụng nằm trong đó, trong chỗ
nối Lục Tự với ba phép soi hồn,
pháp luân, thiền định.
Chính ông Tám
đã nói thế: “Nếu có
bạn đạo thành thật dìu dắt
đúng theo các phép
soi hồn, pháp luân, thiền
định thì ba cái
phép đó đủ rồi chứ
không phải minh sư nói
dóc lung tung vô
ích” (câu 140, Vấn Đạo).
Tôi thiết nghĩ những luận
lý về “nguyên lý”
Adiđà là... “lung tung
vô ích”. Đã vô
ích mà còn
gây ra sự khó khăn
không cần thiết trong việc truyền
bá Vô vi cho những người
không theo Phật vì
làm cho người ta tưởng lầm
Vô vi là Phật pháp
nên không dám
vào hoặc cho là cái
gì đã biết rồi
“déjà su” không cần
động đến nữa.
Hình
như việc móc nối Lục Tự
vào sáu luân xa
là “quán tưởng”, mà
quán tưởng là điều
không nên: ông
Tám ví nó như
cái “giây kẽm gai,
nó chặn đầu bước tiến của người
tu. Quán là cố ý
suy nghĩ, đó là bắt buộc
thần kinh làm thêm việc
không cần. Vô vi phải xả hết
để tâm tư quy nguyên
hoàn bổn... Chúng ta phải
trở về Thái Hư, quán
còn là một thứ chưa đạt
Thái Hư, chưa Vô vi”
(Tôi Tầm Đạo, Kim Ấn Quán,
tr.292). Có lẽ vì
đó nên quyển Chơn Lý
in năm 1980 nói “phép niệm
Lục Tự ở sáu luân xa
không còn hành nữa”.
Vậy tại sao trong quyển Vấn Đạo (in
1982) lại có sự quan trọng
hóa niệm Lục Tự Di Đà đến
độ cho là không đổi được.
Thiết nghĩ vì ông chưa vượt
đợt “vô thanh vô xú”
(hiểu là tập quán
đã lặn xuống miền tiềm thức).
Cái tội của Phật giáo
là làm cho Phật
soán ngôi Thượng Đế,
ông Tám nhờ Kim Thân
Cha đã bỏ được điều đó,
nhưng cái xú thì
chưa, vì thế ông vẫn đề cao
Phật bằng tuyên dương Lục Tự Di
Đà, bằng luôn miệng niệm
Phật, niệm Phật đến bảy, tám lần
may ra niệm Cha mới được hai ba lần (1).
Có lẽ vì cái
xú của tội soán vị Thượng
Đế mà mỗi khi nói đến Kim
Thân Cha ông hay dùng
đại danh từ “nó”, “người ta”,
“y”... họa hiếm mới dùng chữ
“người”, còn Ngài phương
chi Đức Ngài thì tuyệt
không. Điều đó có
thể cắt nghĩa do vô ý nhưng
khi ông nói “tôi
không đồng ý” (với KTC)
thì hiểu rằng những kiểu xưng
hô kia phát xuất do sự
ông còn chấp vào
Phật quá đáng.
(1)
Lần hội nghị 83 vừa rồi thấy khá
hẳn: niệm Cha đã tăng nhiều.
Nhưng
phải nhận là sự chấp này
chỉ là cái xú tức
quá tôn Phật vì
thói quen lâu đời để lại
trong tiềm thức chứ trên
bình diện ý thức
thì ông không nghĩ
tới Phật Thích Ca đâu.
Ông đã tuyên bố “nếu
chúng ta tưởng tới Phật, tới Đức
Thích Ca là chúng
ta sai, vì Phật đâu chẳng
thấy nhưng con ma nó xâm
nhập điều khiển phần hồn” v.v...
(Tôi Tầm Đạo tr.2.39)
Đã
tuyên bố vậy nhiều lần sao
còn cứ bắt niệm Phật và lễ
Phật để làm cho người ta tưởng
tới Phật... và gây hoang
mang cho những người không
có hoàn cảnh để
nghiên cứu sâu xa. Phật tử
quen nói Trời Phật. Theo đồng văn
cả Phật giáo thì Trời
còn bên dưới Phật. Điều
đó ông Tám
không đời nào chấp nhận,
nhất là đã được Đức Kim
Thân sửa sai. Ông chỉ giữ
tên Phật vì chiều theo
thói quen bạn đạo theo Phật, hoặc
giữ để phá mê; ông
giải nghĩa chữ “Mô Phật” là
chẳng có ông Phật
nào hết trọi. Nhưng theo luật
“mạnh chống mạnh chấp”: nói Phật
để chống Phật thì dần dần đi đến
chỗ vô tình đề cao Phật hơn
Thượng Đế, rồi coi mình cao hơn
Kim Thân Cha: “Tôi bắt
còn lẹ hơn CK” v.v...
Thế
rồi điều đó lây sang bạn
đạo. Trong quyển Thượng Đế giảng Chơn
Lý in năm 1983 (tr.196) sau lời
nguyện “Ngọc Hoàng Thượng Đế”,
thì có đủ cả Di Đà,
Quan Âm, Di Lạc y như lần in
trước, như vậy là thụt lùi
lại thời cần sự phò hộ
trái với tinh thần Vô vi tự
lực tự cường rồi. (Nên nhớ
Đức Kim Thân cho đó
là mê chấp và
là óc ỷ lại nghĩ rằng
kêu càng nhiều cửa
càng được phò hộ nhiều),
và eo ơi! Lại thêm ba
câu đáng sợ nữa là:
“con nguyện quy y Phật... quy y
Pháp... quy y Tăng”. Thật
là bức tường ô nhục
xây chắn lối vào nhà
Cha chung, quả là một sự thụt
lùi to lớn so với lần in đầu
(Julia Printing 1980), vì trong
đó không có
câu tam quy, tỏ ra người ấn tống
đã biết coi trọng quyển Chơn
Lý phần nào. Đến lần in
thứ ba thì không còn
coi trọng bằng nên đã cho
cái “mùi” của Phật lấn
lên: gần như coi Phật trọng hơn
Thượng Đế. Đó là điều
trái với lý trí
vì theo lý trí
thì ai cũng cho Thượng Đế
đáng tin đáng trọng gấp
vạn bội Phật. Không lẽ được mở huệ
rồi lại phải đi ngược điều hợp
tình hợp lý đó sao.
Pháp lý Vô vi
là nhà Cha chung cho mọi
con không phân biệt
tôn giáo, tại sao lại cứ
muốn biến Vô vi thành của
Phật bằng bắt mọi người muốn vào
phải chui qua cửa Phật, hít thở
mùi Phật, chẳng hóa ra đi
theo lối ông vua nước Sở kia tiếp
sứ Yến Anh: cửa lớn không cho đi,
bắt khoét lỗ nhỏ bên cạnh
rồi bảo phải chui qua đó
mà vào.
Bạn
sẽ nói Phật đây không
là Phật Thích Ca mà
có ý nghĩa khác...
Thiết nghĩ các bạn đạo nên
bỏ ngay thói dùng
tên cũ để mang nội dung mới
đó đi vì việc gán
ý nghĩa này không
cần, nó chỉ “cần” khi trong cuộc
cách mạng nào (của
tôn giáo, của triết
lý hoặc chính trị) người
ta muốn giảm sự xúc động của
người nghe mới phải bất đắc dĩ
dùng danh từ cũ để chở nội dung
mới. Nói bất đắc dĩ vì
thực ra nó là một sự
đánh lừa tuy “vì đạo”
mà đánh lừa “pia fraus”,
nhưng cũng chẳng nên dùng
vì nói sái khoa học
sái cả với mục đích của
ngôn ngữ (mỗi từ chỉ mỗi vật, mỗi
việc). Vô vi không phải Phật
pháp thì đèo tiếng
đó vào làm chi.
Lúc đầu ông Tư đem buộc
vào dưới Pháp lý
Vô vi hai chữ Phật pháp,
rồi dùng một số từ cũ gán
ý mới để phá mê
vì ông tưởng là cần
phải làm thế (có lẽ
đúng cho bạn đạo ở Sài
Gòn, Chợ Lớn lúc
đó). Nay Vô vi đã
tràn lan và phải được
tràn lan khắp hoàn vũ
thì giữ thói quen
đó đã không cần
mà còn có hại
vì là làm hẹp
cái đạo vốn rộng lớn, đặt cớ cho
người ta hiểu lầm Vô vi chỉ
là một ngành của Phật
giáo, không biết đến Thượng
Đế. Tôi có đứa cháu
mới biết qua Vô vi, gặp một người
Cao Đài hỏi: “Cháu
tính tu theo ông Tám
à? Tu theo ông Tám
không trực tiếp với Thượng Đế bằng
tu theo Cao Đài đâu!”
Đó quả là một sự hiểu lầm
như có thể khá phổ cập.
Vì trước khi Kim Thân Cha
xuất hiện thì toàn niệm
Phật, chứ có nhắc chi tới Thượng
Đế đâu. Thiết nghĩ Vô vi
không nên đặt căn cứ
gây ra sự hiểu lầm nọ nữa.
Vô
vi là pháp tu tắt, thiết
nghĩ chỉ nên dùng lối
nói thẳng, việc chi phải
vòng vo lung tung. Nói
lung tung vì mỗi người gán
mỗi ý. Thí dụ với
ông Tám thì Phật
là “tôi tìm
tôi” (Vấn đạo tr.17); người
khác (có lẽ ông HVE)
thì Phật là Tinh,
Pháp là Khí, Tăng
là Thần. Đối với ĐH Thắng
thì Phật là thanh tịnh,
Pháp là điển quang, Tăng
là trách nhiệm. Với người
khác nữa thì Phật
là sáng suốt, Pháp
là nguồn cội, Tăng là
Thánh thai... Sao không
nói thẳng tam bảo Vô vi
là Tinh, Khí, Thần cho vắn
tắt việc chi phải nói vòng
vo thế? Đã từ gần hai ngàn
năm nay cả triệu triệu người, cả
ngàn vạn kinh sách hễ
nói tới Phật là người ta
hiểu ngay là Phật Thích
Ca, nói tới Pháp là
Pháp giới nhà Phật,
nói Tăng là chỉ các
sư ni phần đông mang họ
Thích, chẳng ai nghĩ khác.
Mãi tới nay may ra một số rất nhỏ
bạn đạo Vô vi mới nói Phật
mà không nghĩ đến
Thích Ca, nói đến
Pháp là nguồn cội,
nói đến Tăng là
Thánh thai... Cho nên thiết
nghĩ cần phải hạn chế tối đa tên
Phật (niệm Phật, đánh lễ Phật,
Trời Phật) để dùng chữ Thượng Đế,
Cha Lành, Chúa Tể
Càn Khôn... vô số
tên. Pháp lý
Vô vi là Hồng ân
Thượng Đế ban ra cho loài người
nhưng trước hết ở đất Việt Nam
thì nên dùng từ Việt
Nam được rồi: tiếng Việt Nam đâu
có nghèo đến đỗi phải vay
mượn vòng vo đến thế.
Trên
đây là ít điều
làm lung lay lòng tin
tưởng của tôi đối với ông
Tám lúc ban đầu, lung lay
đến độ có lúc tôi
phân vân không biết
Vô vi có phải là
pháp tu an toàn chăng.
Vì nghe rằng mỗi khi nói
là ông thả lỏng bộ đầu để
nói theo điển tức theo Bên
Trên hướng dẫn mà sao lại
có những lời bất nhất như vậy.
Thế là tôi không tin
hẳn vào điển nữa. May thay
tôi lại gặp được quyển Chơn
Lý làm cho lòng
trí tôi thỏa mãn
hoàn toàn vì
tôi cảm thấy như được dẫn
sâu vào cõi đạo
mà không có
gì cưỡng lý trí cả.
Câu
làm tôi cảm kich nhất
là khi Ngài nói
rằng mỗi tôn giáo biểu thị
một màu sắc của chân
lý. Với tôi câu ấy
có nghĩa là mỗi đạo
lý (cả tôn giáo lẫn
triết lý) chỉ bày tỏ được
một khía cạnh của chân
lý vốn có muôn
khía cạnh. Câu đó
tuy kiện chứng cho những điều tôi
nghĩ trước nhưng đồng thời làm
cho tôi hiền hẳn ra. Khi
còn nhỏ đọc Tây Du
Ký tôi chỉ muốn tặng Tam
Tạng mấy cú đá đít.
Nay đọc Kim Thân Cha rồi nếu gặp
ông tôi chỉ cười xòa
lại còn tự răn mình: cứ
sách với vở mà không
tu thì hãy coi gương Tam
Tạng. Trước kia tôi thấy
các đạo lý có đến
90% là nói tầm bậy.
Ngày nay khi đọc quyển Chơn
Lý rồi tôi không đổi
ý đó nhưng tôi đổi
thái độ, thay vì
ghét bỏ 90% sai lầm kia,
thì tôi lại yêu mến
10% đúng còn lại. Trước
kia tôi không sao dung
hoà được lòng thán
phục Phật Thích Ca đã
nói những lời rất sâu sắc,
nhưng lại rất ghét cái tội
phạm thượng trong đạo Phật. Ngày
nay tôi hiểu rằng cái “tội”
đó chỉ là “tội” đối với
những cõi hồng trần nhỏ hẹp
này, chứ đối với Chúa Tể
Càn Khôn thì
đó chỉ là trò vui.
Con người dù đã tu tới cấp
Phật cũng chỉ là con người nghĩa
là đối với Chúa Trời Đất
chưa bằng một phần tỉ con kiến,
thì sức mấy mà phạm thượng
nổi. Con kiến nếu biết nói
mà nó bảo rằng nó
sẽ cỡi đầu ta v.v... thì ta
đâu có mích
lòng, trái lại ta sẽ lấy
làm thích thú,
nuôi dưỡng, cưng chiều và
chọn nó riêng ra để
nó làm trò vui cho
ta, cho các bạn ta. Con người
xét là tiểu ngã
trước Thượng Đế còn nhỏ hơn con
kiến đối với ta, chỉ là một tế
bào trong tỉ tỉ tế bào của
Thượng Đế thì sức mấy mà
phạm tội uy quyền Ngài được, cho
nên nói “tội” chẳng qua
là chỉ sự con người đi sái
đường tiến hóa thì
nó quật lại thân
mình thôi. Thế mà
ngày nay đi sái đường đầy
cùng khắp. Cái đó
cũng là do ý Cha Trời: mọi
tôn giáo dù
là tà giáo cũng do
Ngài cả. Ngài xếp đặt như
thế để có bài cho
các con của Ngài học, học
đủ phía: cả trí, cả
nhân, cả dũng, kể cả trong đạo, cả
khi đã chọn được một chánh
pháp rồi cũng không thể
thải bỏ lý trí, thải bỏ
óc phê phán,
trái lại phải giữ lý
trí tỉnh thức luôn,
óc phê bình
không được nghỉ, phải phê
phán mãi, nó phải
theo sát nút mỗi bước tiến
hóa cả khi đã mở huệ rồi,
có điển hóa văn rồi cũng
vậy, không những ở cõi
phàm trí, mà cả khi
theo những bậc đã mở huệ,
đã trụ điển, vì điển tuy ở
trung tâm vũ trụ thì
vô biên nhưng khi tỏa ra
thì nhiều ít tuỳ
cái chứa; cái chứa
có nhiều số độ Watt khác
nhau, với đèn 15 Watt thì
dễ xem cò ra quạ lắm. Lại
còn vụ nổ cầu chì,
ông Tám có điển cao
những lâu lâu nổ cầu
chì liền cho ra những lời lung
tung. Lại còn vụ câu hồ đồ
nọ có thể do chính
các vị có y nói ra,
hoặc do Cha Trời chuyển các vị
nói ra để tạo cho các con
của Ngài có dịp mài
dũa óc phê phán đặng
vun bồi cái trí cũng như
duy trì quyền tự chủ, tự quyết
của mình.
Đã
vậy, lại còn vụ văn đạo với
lý đời hai đàng
khác hẳn không thay thế cho
nhau được; tu đạo có cao mấy cũng
không vì thế biết được
lý đời nếu không học như
được tỏ rõ trong câu
nói của Vô vi: “khôn
thiên đàng, ngu thế gian”.
Vậy phải tu cả hai. Nếu chỉ có tu
“đạo” thì việc đời vẫn
không giỏi theo được, cho
nên truyền thuyết nói Phật
Thích Ca ăn phải nấm độc
mà chết có thể chỉ điều
đó, nghĩa là ông tu
thanh thì biết thanh. Nay nếu
muốn biết trược thì ông
phải học trược mới biết. Suy như vậy
làm tôi không
còn mích lòng
(scandalisé) vì những
câu nói lung tung của những
vị đã tu cao.
Đó
là ơn ích mà
tôi đã thu lượm được khi
đọc quyển Chơn Lý, một quyển
sách hết sức cách mạng
vì nhiều điều mới lạ xưa nay chưa
sách nào nói tới
như vụ tuyên bố Phật mới biết
có thanh chưa biết trược, nghĩa
là thanh trược khác nhau:
tu bên nào biết bên
đó. Điều mới nữa là Đức
Ngài sửa lưng mọi tôn
giáo nhưng không như những
lời đả kích khác
làm cho người đọc ghét
tôn giáo. Ở đây tuy
Ngài có sửa sai nhưng lại
làm người đọc mến tôn
giáo hơn. Đó là
điều tôi học được nơi quyển Chơn
Lý, nghĩa là sau khi đọc
rồi tôi vẫn còn nghĩ như
trước nhưng thay đổi thái độ.
Trước kia tôi không thể hiểu
tại sao tu cao như Thích Ca hay
ông Tám mà
còn có những câu hồ
đồ nọ. Có đúng hồ đồ hay
tôi hiểu sai? Nay tôi thấy
cái nhìn lý
trí của tôi không
sai, nhưng hai chữ “màu sắc” của
Kim Thân Cha làm cho trường
hoạt động trong tôi đổi rồi: trước
kia dồn xuống chân trong tư thế
sẵn sàng đá, nay chuyển
lên miệng để sẵn sàng cười
xòa. Trước kia tôi cho
các điều nói về các
thứ huệ với các quyền năng của
Phật là phóng đại kiểu
chưởng: nghĩa là con đường trở về
với Thượng Đế dài vô
cùng, ông Phật chưa chắc
đã đi được 10%, mà người
đời đã dám tâng bốc
ông lên trên
ngôi Thượng Đế, nhưng nay
tôi đặc biệt chú ý
đến 10% đã đạt được của ông
Phật hay ông Tám hay cả
các tôn giáo
khác, và đem lòng
kính phục mến yêu coi tất
cả như trăm ngàn hoa với
muôn màu sắc đang
làm cho thơm đẹp cõi đời:
tất cả đã làm ơn cho con
người. Nếu như thiếu tôn
giáo thì cõi thế
chắc đã trở nên hỏa ngục
lâu rồi. Việc các tôn
giáo phạm đầy những khiếm khuyết
lỗi lầm thì đấy cũng là do
ý Cha Trời để cho các con
của Người có thêm
bài học về trí,
không thể ỷ lại vào bất cứ
cái gì dù là
tôn giáo, nhưng phải
luôn luôn tỉnh thức.
Hổi
tỉnh lại thấy mình đang
miên man suy nghĩ như vậy thật
là khác với trước kia,
làm cho tôi cảm động
vô cùng; tôi cảm mến
Cha Trời đã đổi tâm thức
tôi như vậy đó, xoay
cái nhìn của tôi
theo chiều hướng hòa hoãn
từ lúc nào tôi
không hay. Rồi tôi lại suy
về chính mình cố gắng biết
bao mà còn bê bối
thế đó, đã chắc gì
đạt đuợc trong muôn một. Nghĩ như
vậy tôi bắt đầu “tôi cười
tôi” và trở nên hiền,
và sẽ cố gắng trở nên hiền
hơn nữa. Tôi không
sám hối; sám hối là
tỏ quyết tâm không
tái phạm. Cười cũng tỏ quyết
tâm như vậy nhưng còn
đúng với tinh thần đạo Trống,
theo đó thì cuộc đời chỉ
là một cuộc chơi, nên chỉ
việc đánh trống bụng mà
cười khì: việc chi phải đá
đít, việc chi phải băn khoăn
mà chỉ còn là cười,
cười chính mình tôi:
tôi cười tôi thả dàn.
Tôi cười tôi
Cười mãi mãi
trên con đường Mê và
Phá Mê bất tận.
“Quỳ long cổ phúc tiếu
hi bi”.
XIII. Từ
Cưỡng hoà tới An hoà
Hòa
thì ai cũng mong muốn và
sẵn sàng để hòa nhưng
thiếu điều kiện bất khả vô
(conditio sine qua non) không thể
nào có hòa,
dù thiện chí đến đâu
cũng chỉ là tạm bợ, sớm muộn
gì cũng sẽ chia rẽ kiểu nọ hoặc
kiểu kia.
Điều
kiện hòa trong ngắn hạn thuộc
nhân sự do một người có khả
năng lãnh đạo, được nhiều người
quý mến nên dễ được phục
tùng. Khi có người
đó dù chưa hòa rồi
cũng có hòa mà hậu
quả trông thấy là một tụ
họp hoặc tổ chức nào đó:
văn nghệ, xã hội, chính
trị và cả một tôn
giáo mới nữa.
Điều
kiện dài hạn là một thuyết
lý hòa giải làm nền
móng. Ta sẽ gọi là An
hòa, còn hòa ba
phải thiếu nền móng triết sẽ tạm
gọi là cưỡng hòa. Thiếu An
hòa các công
trình hòa giải khác
chỉ là những thử thách
không thể đưa tới thành
công trường cửu như bao cuộc
hòa giải đã cố đưa ra cũng
đều thất bại, cùng lắm chỉ
là một thứ tạm ước “méo
mó có hơn không”
phải dùng đỡ vì chưa
tìm ra thứ An hòa
có nền móng, có địa
vị minh triết và triết lý.
Thiếu nó những thứ hòa kia
chỉ là cái mặt bên
ngoài làm bằng ngoại giao,
không đủ sức triệt căn những mối
bất hòa ngấm ngầm nội tại.
Vì thế cần phải tìm cho ra
thuyết lý vững vàng.
Đó là việc thiên nan
vạn nan, cho tới nay rất là hạn
hữu.
May
thay trong Vô vi đã được Bề
Trên ban cho: ngắn hạn là
Kim Thân Cha, dài hạn
là quyển Chơn Lý.
Đó là ơn huệ lớn chưa thấy
trong lịch sử loài người,
không bút mực nào tả
xiết, lẽ ra người Vô vi phải đầy
lòng cảm mến học hỏi và
tuân theo. Thế mà kỳ lạ
thay, những lời tri ân đó
quá hiếm hoi, hay nếu có
thì cũng bị che lấp bởi những lời
nói về công nghiên
cứu của con người. Điều đó rất
có thể gây trở ngại cho
việc truyền bá Vô vi hay
ít ra che lấp mất tính
chất khoa học của pháp môn
này. Vì vậy mà
bó buộc phải nói
thêm ít lời để bàn
đến chỗ triệt để.
Việc
hòa hợp mà Kim Thân
Cha nói đến nhiều nhất, cho
là tinh thần của Vô vi
không thể là một thứ
hòa bất kỳ nào không
cần đến nền tảng mà phải
là một cuộc An hòa tức
có nền móng triết
lý và minh triết hẳn hoi,
vì quả đó là điều
trong quyền năng Ngài. Vậy
không phải là cái
Hòa ba phải do sự bất lực đưa ra
nền triết lý ứng hợp nên
phải đi ve vãn mọi nơi, tỏ ra
mình sẵn sàng hòa
đồng. Hòa kiểu đó
thì chưa biết kết quả tích
cực tới đâu chứ nó dễ
làm cho pháp lý của
mình chóng trở nên
một món hổ lốn, không bao
lâu sẽ đầy nhóc dị đoan như
đã xảy ra với hai đạo Lão
và Thích bên
Tàu từ thế kỷ thứ II về sau.
Trong suốt thời gian đó cả hai
vừa đánh vừa đàm: nghĩa
là hết đồng ý nhau
thì đến đá nhau. Hậu quả
là từ thế kỷ XII cả hai suy
tàn. Đó là tại
đã theo kiểu cưỡng hòa chớ
không là an hòa,
mà câu châm
ngôn cụ thể là “hòa
nhi bất đồng” với ý nghĩa
là phải hòa với hết mọi
người dù khác ý
kiến, khác tôn giáo,
đảng phái... mình vẫn phải
kính trọng không được khinh
khi, nhưng trên phương diện
ý kiến và triết lý
mình vẫn có thể là
mình, vẫn có thể bất đồng
ý kiến, nhờ vậy mới tránh
được dị đoan mê tín. Theo
tinh thần ấy ta vẫn có quyền
phân tích và
phê phán các đạo
lý mà không sợ mắc
tội cống cao ngã mạn, miễn
là mình hòa với mọi
người dù họ theo đạo khác,
dù đạo ấy mình cho
là thấp kém hay cả sa đọa.
Đó là điều không thể
cấm lý trí xét
đoán như vậy: một lý
trí lành mạnh phải biết
đâu là cao đâu
là thấp, đâu là
trung thực đâu là suy vi.
Xưa
nay thấy một vị lập thuyết hay lập đạo
nào lại không khởi đầu bằng
việc phê bình gắt gao
các thuyết đương thời. Phật
Thích Ca được tiếng đã
đánh đổ hai triệu thần
phái Brahma, Ngài
đã dùng cả đến những lời
lẽ có thể gọi là cạn
|