Thiền Quán
www.thienquan.net




Trang Thiền Luận
Như Phong tổng hợp






ảnh cuả trongsuot.com

Tứ Thiền Định
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)


Mục lục





Tứ thiền nghĩa là bốn mức độ nhập định được chia ra Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiềnTứ thiền. Gọi là Tứ thiền định là không chính xác vì ta còn có Năm mức định.

Bốn mức thiền này đều có nhập và xuất, nghĩa là khi muốn an trú mức thiền nào, ta phải có thời gian dụng công chứ không phải đó là những trạng thái thường xuyên. Rồi khi muốn trở lại trạng thái như cũ, ta cũng phải mất công thoát ra chứ không phải tức thì được. Bình thường khi không nhập thiền, một thiền giả an trú trong nội tâm tỉnh giác vắng lặng nhưng không phải là bốn mức thiền này. Bốn mức thiền này chỉ được thực hiện trong tư thế bất động mà thôi. Tuy nhiên, cũng có khi một thiền giả vừa đi vừa nhập thiền rất sâu. Lúc đó, vị đó được xem là khởi thần thông, vì thần thông có nghĩa là vừa vào định vừa hành động. Chúng ta cần hiểu qua tính chất của Tứ thiền trước khi so sánh vơi Tứ thánh quả. Những điều được trình bày ở đây dựa vào bài kinh Sa Môn Quả trong Trường Bộ Kinh


Chánh niệm tỉnh giác

Muốn nhập định thì phải loại bỏ vọng tưởng, sau một thời gian luyện tập Thiền, thiền giả đạt được 'Chánh niệm tỉnh giác nghĩa là tâm không loạn động như trước, những suy nghĩ vẫn vơ vừa mới manh nha nổi lên đã bị phát hiện và loại bỏ. Lúc này hành giả đã cảm thấy một phần an lạc và sáng suốt hơn xưa rồi, tùy duyên mỗi người mà trực giác cũng phát triển một chút xíu, có khi chỉ cần nghe người ta nói nửa câu thì biết ý của họ là gì, thậm chí có khi chỉ cần nhìn mặt là biết kẻ ngay người gian, biết người đối diện đang nói thật hay nói dối..v.v.

Thiền là lĩnh vực tâm linh, nên không thể được hỗ trợ bởi bất cứ phương tiện vật chất nào, ta phải tự lực cánh sinh. Vì phải có quyết tâm cao, chịu đựng sự đau chân, mỏi lưng, chiến thắng chính tâm trí của mình, nên lâu ngày hành giả sẽ có đức tính kiên nhẫn, ý chí sắt đá, sức chịu đựng cao, trực giác tốt..v.v.

Sơ thiền

Các mức thiền này chỉ dành cho người có quyết tâm tu tập, lìa bỏ Ái Dục. Và có chuẩn bị tâm lý trước, vì nó cần một môi trường thật sự yên tĩnh, cách ly thế gian.
Để leo lên từng mức thiền, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào căn cơ từng người,có thể là vài ngày, vài tuần, có khi khoảng vài chục năm, có khi mười mấy hai mươi năm, có khi sang cả kiếp khác. Nếu kiếp này không lập nguyện, thề ước trước Phật thì sang kiếp sau đảm bảo quên sạch và Phàm phu vẫn là Phàm phu.

Sơ thiền là mức nhập định đầu tiên, nhưng phải là đã chứng được Chánh niệm tỉnh giác (CNTG) và phá trừ xong Năm triền cái. Hành giả như lọt vào một trạng thái thanh tịnh hơn, và tự động, chứ không còn phải gắng sức giữ gìn như trong CNTG nữa. Khi chứng được Chánh niệm, hành giả thấy tâm mình cũng đã là thanh tịnh rồi, nhưng còn phải khéo léo giữ gìn nhẹ nhẹ. Nhưng từ Sơ Thiền trở đi, hành giả không còn phải giữ gìn nữa mà tâm tự động an trú trong định. Hành giả thấy thân của mình chuyển động từ trạng thái cứng (lúc phá xong triền cái Trạo cử, xem Năm triền cái, sang trạng thái mềm lỏng như một khối nước gì nhớt nhớt giống như xà bông.

Tâm hành giả dĩ nhiên là vắng lặng, nhưng thật ra vẫn còn những ý niệm về công phu của mình, về thành tựu của mình. Những ý niệm này rất thầm lặng, nên hầu như hành giả không biết là mình đang còn ý niệm, cứ tưởng rằng mình đã hoàn toàn thanh tịnh. Phật diễn tả đó là trạng thái ly dục sinh hỷ, còn tầm còn tứ (xóa bỏ Ái Dục, đạt được An vui, nhưng còn tiềm ẩn).

Trong Sơ thiền, hành giả lìa bỏ được các ham muốn thế gian vì niềm an vui của nội tâm vừa đầy đủ, vừa thanh khiết, không cần phải giải trí bằng vật chất bên ngoài. Toàn thân hành giả luôn ở trong trạng thái vui sướng nhè nhẹ và tràn đầy. Sau khi chết, nếu vẫn còn giữ được trình độ này thì sẽ sinh vào cõi trời Sơ Thiền.

Cái ý niệm thầm kín về công phu và sự thành tựu của mình tạo nên một loại kiến giải Phật Pháp và tâm tự hào bí mật. Hành giả sẽ dễ dàng đối đáp trôi chảy và nắm bắt các lĩnh vực khó, trừu tượng, hay say sưa diễn thuyết lưu loát nếu có cơ hội. Vì vậy, tuy Sơ thiền rất là vĩ đại nhưng cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ đối với đạo đức.

Nhị thiền

Là kết quả tiếp theo nếu hành giả đủ công đức. Hành giả sẽ thấy toàn thân mình giống như nước trong mát tuôn trào bất tận mà Phật diễn tả như hồ nước được suối phun và mưa tuôn mãi mà không bao giờ lọt nước ra khỏi hồ. Dĩ nhiên nước thì mềm hơn, lỏng hơn nước sền sệt của xà bông. Từ toàn thân cứng của Chánh niệm, tiến lên Sơ thiền thì thân sền sệt như nước xà bông, tới Nhị thiền thì thân đã mềm hoàn toàn như nước nguyên chất, và lại còn thêm cảm giác tuôn tràn mãi mãi.

Lúc này những ý niệm thầm kín cũng biến mất, nên trong đời sống hành giả không còn ham thích trình bày phô trương, và rất hiền lành. Phật gọi là hết tầm hết tứ.

Lúc này hành giả thành tựu trí tuệ rất sắc bén nhanh nhạy, kiến giải Phật pháp là bất tận vô ngại, không ai có thể hỏi vặn vẹo được, việc gì nhìn thoáng qua là biết rõ, ngồi thiền rất lâu, thường biết trước giờ chết

Nếu đừng bị tà kiến xâm nhập thì đường giải thoát của người đạt Nhị thiền là chắc chắn. Nếu bị tà kiến, lầm cho mình là viên mãn, tưởng rằng mình đã kiến tánh thành Phật, thì hành giả hưởng hết phước kiếp này qua kiếp sau sẽ bị thoái đọa lui sụt xuống mức độ thấp hơn nhiều.

Tam thiền

Được Phật diễn tả toàn thân như một bông hoa sen đang vươn lên từ trong nước, được nước bao phủ với nội tâm là xả niệm lạc trú (dứt bỏ ý niệm, thường xuyên an lạc).

Niềm vui của Tam thiền rất đằm thắm nhỏ nhiệm và đầy khắp, giống như hoa sen ngập trong nước, tẩm ướt, tràn ngập, nhưng không thấm nước, cũng vậy, niềm vui của Tam thiền rất tự tại, bình an và vượt khỏi cơ thể, giống như cả không gian đều cùng an vui vậy. Thân của hành giả lúc này giống như một khối không khí hân hoan an lạc.

Ý nghĩa của xả niệm là hành giả đã vượt qua được Vô thức (theo khoa học, Vô thức chiếm hơn 90% cuộc sống của con người, ý thức chỉ chiếm phần nhỏ). Vượt qua được nó nghĩa là tâm hồn đã thật sự ổn định. Những bản năng sinh tồn, bản năng hưởng thụ... đều bị kiềm chế.

Lúc này khi ngồi thiền nhập định, hành giả không còn nghe thấy mọi cảnh vật, tiếng động bên ngoài, hoàn toàn an trú vững chắc trong thế giới nội tâm sáng suốt vi diệu thanh tịnh của mình.

Tứ thiền

Là mức thiền cuối cùng của các bậc thiền Sắc giới. Phật diễn tả đó là trạng thái xả niệm, thanh tịnh, không lạc, không khổ. Xả niệm của Tứ thiền hơn hẳn Tam thiền vì đã hoàn toàn vượt khỏi Vô thức, kể cả Ý thức. Trong con người ta, Vô thức đảm nhận việc điều khiển hệ hô hấp, tiêu hóa, các tuyến nội tiết... những thứ mà ta không chủ động điều khiển được. Chiến thắng được Vô thức nghĩa là có thể dừng được hơi thở, dừng mọi sự sống, nhập định vài trăm năm rồi xuất định, sống bình thường, sống tiếp cái tuổi ngày xưa. Còn Ý thức thì liên quan tới các Giác quan, chiến thắng được Ý thức sẽ khai mở những khả năng của giác quan như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông..v.v. (xem Thần thông)

Theo: http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A9_thi%E1%BB%81n





Lợi ích của thiền
Giáo sư Minh Chi
Học viện Phật giáo VIệt Nam

 

Hành thiền đúng phép có thể đem lại cho người hành thiền những lợi ích như sau:

  1. Các căn được an an tịnh, và một cách tự nhiên, hành giả thấy thích thú với thói quen hành thiền hàng ngày.
  2. Lòng từ xâm chiếm tâm hành giả. Với lòng từ, hành giả xa lìa mọi tội lỗi và xem tất cả chúng sanh như là anh chị em.
  3. Những dục vọng làm mệt mỏi và đầu độc thân tâm như là giận dữ, keo kiệt, kiêu ngạo… dần dần xa lìa tâm của hành giả.
  4. Nhờ hộ trì chặt chẽ các căn, cho nên những niệm ác, xấu không len vào tâm hành giả được.
  5. Với tâm trong sáng và tư thái bình thản, hành giả không còn thèm muốn gì đối với những dục vọng thấp hèn.
  6. Tâm thức của hành giả tập trung vào những ý niệm cao cả, mọi tư tưởng vị kỷ, ham muốn quay cuồng theo dục vọng đều xa lìa.
  7. Hành giả không lạc vào chủ nghĩa hư vô, mặc dù thấy rõ mọi sự vật đều không rỗng bèo bọt.
  8. Tuy vẫn còn trong vòng sanh tử luân hồi, nhưng hành giả đã nhận thức rõ con đường giải thoát.
  9. Nhờ đi sâu vào giáo pháp mầu nhiệm, hành giả nương tựa vào trí tuệ của đức Phật.
  10. Vì không còn gì hấp dẫn và làm cho hành giả ham muốn, hành giả cảm thấy như con Phượng Hoàng đã thoát khỏi lưới và đang bay lượn tự do trên bầu trời.

 

(Theo kinh Chandrad font> pa Samadhi S‰ tra, tức kinh Nguyệt Đăng Tam Muội trong Hán tạng, được dẫn chứng trong cuốn "các bài giảng của một tu sĩ" (Sermons of a Buddhist Abbot), tác giả: Hoà Thượng Nhật Soyen Shaku". Xem cuốn "The Essense of Buddhism" của Lakshmi Narasu, trang178)

Trong kinh Thân Hành Niệm, phép tu thiền niệm thân, Phật nói tới mười công đức của phép tu thiền niệm thân như sau:

  1. Đối trị tham và sân.
  2. Loại bỏ sợ hãi.
  3. Có thể chịu đựng nóng lạnh, đói khát, côn trùng quấy nhiễu.
  4. Dễ dàng chứng bốn cấp thiền.
  5. Có thể biến hoá thần thông theo ý muốn.
  6. Có thêm nhĩ thông, tức là có khả năng nghe những âm thanh mà tai người bình thường không nghe được.
  7. Biết được ý nghĩ của người khác.
  8. Biết dược các kiếp sống quá khứ của người khác.
  9. Có thiên nhãn thông, tức là con mắt có thể nhìn thấy các chúng sanh trôi nổi theo nghiệp từ đời này qua đời khác.
  10. Ngay trong đời hiện tại đạt được tâm giải thoát và tuệ giải thoát.

(Xem kinh Thân Hành Niệm, Trung Bộ III, trang 280-81-82)

 

Như vậy là chỉ tu tập phép niệm thân này thôi (không phải niệm cả bốn xứ là: thân, thọ, tâm và pháp), hành giả nếu kiên trì, siêng năng cũng đạt được mười thành quả đáng khích lệ nói trên. Phật dạy:"Này các Tỳ-kheo, thân hành niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như thành cỗ xe, được làm thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức này có thể được mong đợi. Thế nào là mười?…" (Xem trong 280, kinh đã dẫn).

Nội dung của phép niệm thân như đã sơ trình bày trên đây cũng không có gì là quá phức tạp.

  • Niệm hơi thở.
  • Niệm mọi cử động của thân.
  • Quán các bộ phận của thân như là một tổng hợp của lục phủ ngũ tạng v.v… chứ không phải là một cái gì đơn nhất, lại gồm những vật bất tịnh, chứ không phải đẹp đẽ gì mà sanh lòng ham muốn. (Đối với thân mình cũng như thân người khác).
  • Quán thân chỉ là do bốn đại tạo thành: đất, nước, gió, lửa (địa, thuỷ, hoả, phong). Khi thân hoại thì bốn yếu tố đó trở về với thiên nhiên.
  • Quán xác chết trong quá trình thối rửa của nó. Cách quán này, sách Trung Quốc gọi là "bạch cốt quán". Bạch cốt là xương trắng. Hiện nay chúng ta chỉ cỏ thể quán xương trắng trong tưởng tượng. Trái lại, ở Ấn Độ cổ đại, có những nơi có tập quán để cho xác chết những người nghèo hay xác tội phạm bị tử hình phơi ngoài đồng mặc cho dã thú và chim muông rỉa thịt. Do đó, cơ hội để trực tiếp quán xác chết có nhiều hơn so với hiện nay.

 

Trong cuốn "Hành Thiền", Hoà Thượng Thích Minh Châu cũng đề cập tới bốn lợi ích của thiền như sau:

    1. Thiền có khả năng đoạn trừ các dục,
    2. Thiền có khả năng đoạn trừ lòng sợ hãi.
    3. Thiền đem lại niềm vui, gọi là thiền lạc.

 

4. Thiền đưa đến thành tựu trí tuệ, giác ngộ, giải thoát, niết-bàn.

(Xem "Hành Thiền-Một Nếp Sống Lành Mạnh Trong Sáng, Một Phương Pháp Giáo Dục Hướng Thượng, Thích Minh Châu, Trang 23).

Hoà Thượng Thánh Nghiêm, một thiền sư Trung Hoa từng diễn giảng nhiều năm về thiền học tại nước Mỹ, mới đây trong quyển "Thiền và Ngộ", ngay ở bài đầu "Thiền Ngộ và Tĩnh Toạ" đã nói vắn tắt về lợi ích của ngồi thiền như sau:

"Ngồi thiền đối với thân tâm chúng ta đều có lợi ích. Nó giúp cho thân thể mạnh khoẻ, và tâm được hài hoà quân bình. Nó giúp cho chúng ta bớt vướng mắt, chấp trước, khiến cho đầu óc chúng ta bớt nóng nảy, mà được mát lạnh sáng suốt. Nó giúp chúng ta mở mang trí huệ, khai phát tinh thần…"

(Thiền và Ngộ, trang 1, nxb. Sở tại Đài Bắc 1980)

Nói tóm lại, lợi ích của thiền rất là nhiều, lớn, cụ thể. Nhưng phải hành thiền thì mới thể nghiệm được, chứ không thể nào thể nghiệm được lợi ích của thiền qua sách vở, dù là sách vở viết rất hay. Vì vậy, tôi khuyên: hỡi các bạn hãy tập thiền hàng ngày, phải thường xuyên ngay trong cuộc sông bình nhật của mình.




Thiền Chỉ và Thiền Quán

Hỏi:
Xin cho biết sự khác nhau cơ bản giữa tu tập Thiền ChỉThiền Quán? Tứ Thiền và Tứ Quả là gì? Sự khác biệt và mối liên hệ giữa chúng? 

Đáp:

Thiền Chỉ và Thiền Quán là hai hình thức vận dụng tâm khi tu tập Thiền định (Jhàna) của Phật giáo. Tu tập Thiền Chỉ (Sammatha), hành giả để tâm dừng trú trên một đối tượng với chánh niệm tỉnh giác, không suy nghĩ và tư duy. Như để tâm theo dõi hơi thở vào ra hoặc trú tâm vào danh hiệu Phật, dứt bặt nghĩ tưởng và hoàn toàn chánh niệm tỉnh giác tức đang hành Thiền Chỉ.

   Tu tập Thiền Quán (Vipassana) thì lại khác, hành giả để tâm theo dõi một đối tượng và phân tích hay tư duy trên đối tượng ấy, nói cách khác là quán tánh sanh diệt trên đối tượng. Theo quan điểm của kinh tạng Nikàya thì có bốn mươi đối tượng tu tập Thiền Quán. Tuy nhiên, hành giả phải để tư duy hoạt động trên cơ sở sự thật về Duyên khởi hoặc Khổ, Vô thường hay Vô ngã. Nếu tư duy mênh mang và không phân tích sự vật theo duyên sinh thì đấy chỉ là vọng tưởng mà không phải Thiền Quán.


    Thông thường thì Thiền Chỉ thuộc về tĩnh còn Thiền Quán thuộc về động. Vận dụng tu tập Chỉ hoặc Quán dựa trên nguyên tắc đối trị. Khi tâm quá năng động, trạo cử thì vận dụng Thiền Chỉ. Ngược lại tâm quá thụ động, hôn trầm thì hành giả vận dụng tu tập Thiền Quán. Trong tu tập thiền định, Chỉ và Quán được phối hợp nhịp nhàng, tuỳ theo căn tánh của hành giả mà vận dụng Chỉ hoặc Quán để điều phục tâm, đi sâu vào thiền định.


    Tuy nhiên, Thiền Chỉ chỉ đem đến kết quả định tâm, thành tựu Tâm giải thoát, chứng đắc thần thông. Muốn thành tựu Tuệ giải thoát thì từ Tứ thiền, phải phát triển Thiền Quán đến đỉnh cao, đoạn trừ hết thảy lậu hoặc, kiết sử, chứng đắc Tam minh, giải thoát luân hồi sanh tử, chứng A la hán.

     Tứ Thiền là tên gọi tắt của Tứ thiền định tức bốn cảnh giới thiền định, thuộc bốn chi phần đầu của Bát thiền hay Bát định (Samapttiya), gồm Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Đối với một hành giả tu tập thiền định thì nổ lực đầu tiên là chuyển hoá năm triền cái (trạo cử, hôn trầm, dục, sân và nghi), vốn làm ô uế tâm, làm chướng ngại trí tuệ. Dùng năm thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc và xả, nhất tâm) để đối trị năm triền cái.


   Sơ thiền là cảnh giới mà hành giả chứng đạt với trạng thái hỷ lạc do đoạn trừ năm triền cái, ly dục, ly các pháp bất thiện, có tầm và tứ (Ly sanh hỷ lạc). Nổ lực tu tập, hành giả diệt tầm và tứ, chứng và trú Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do Định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm (Định sanh hỷ lạc). Tiếp tục tu tập, hành giả xả ly hỷ, tâm cảm thọ lạc, có sự buông xả, tĩnh lặng, chánh niệm tỉnh giác, chứng và trú Tam thiền, trí tuệ bắt đầu hiển lộ (Ly hỷ diệu lạc). Tứ thiền là cảnh giới tâm hành giả trở nên bất động, xả khổ và lạc, bình đẳng với sự vật, xa lìa phân biệt, nhất hoá chủ thể và đối tượng, ý nghĩa nhất như được thể hiện (Xả niệm thanh tịnh).


    Từ Tứ thiền, hành giả chuyên tâm tu tập đoạn trừ mười kiết sử. Tuỳ theo chi phần kiết sử được đoạn trừ, hành giả lần lượt chứng đắc Tứ Thánh quả. Thứ nhất, Sơ quả Tu đà hoàn (Sotàpanna), quả vị này đưa hành giả chính thức dự vào dòng Thánh (Dự lưu), nhiều nhất là trải qua bảy lần tái sanh mới hoàn toàn giải thoát (Thất lai), hành giả đoạn được ba hạ phần kiết sử Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi. Nổ lực Thiền quán, dựa vào nền tảng Sơ quả là đoạn trừ ba hạ phần kiết sử đầu, hành giả tiếp tục làm muội lược hai hạ phần kiết sử kế tiếp là Dục và Sân, chứng Nhị quả Tư đà hàm (Sakadagami). Quả vị này còn tái sanh một lần nữa để tu tập chứng đắc quả vị tối thượng (Nhất lai). Khi đoạn trừ hoàn toàn năm hạ phần kiết sử thì chứng Tam quả A na hàm (Anagami). Ở quả vị A na hàm không còn sanh trở lại cõi người, chỉ tái sanh ở cõi Sắc và Vô sắc, từ đó tu tập chứng đạt quả vị tối thượng (Bất lai). Sau cùng là Tứ quả A la hán (Arahat), hành giả phát huy Thiền quán đoạn tận mười kiết sử, năm hạ phần kiết sử đã đoạn tận ở trước và năm thượng phần kiết sử là Hữu ái, Vô hữu ái, Mạn, Trạo cử và Vô minh, chứng ngộ Niết bàn, giải thoát luân hồi sanh tử (Vô sinh). (Thích Chơn Thiện, Tăng Già Thời Đức Phật, chương7 - Các quả vị…, tr 231).


   Tứ thiền và Tứ quả có mối liên hệ mật thiết, Tứ thiền làm nền tảng cho việc tu tập để chứng đắc Tứ quả. Chỉ có Tứ Thánh quả mới đoạn tận sanh tử, thành tựu giải thoát, chứng đắc Niết Bàn.

     Như đã trình bày, từ Tứ thiền, hành giả chuyên tâm tu tập Thiền quán về Vô ngã, Vô thường…, loại trừ mười kiết sử, lần lượt chứng đắc Tứ Thánh quả. Hoặc từ Tứ thiền, dựa trên nền tảng của Thiền chi xả và nhất tâm, hành giả hướng tâm vào tưởng “không gian là vô biên”, thì sẽ đắc Không vô biên xứ định. Lần lượt chứng đạt Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định và Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Tại định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hành giả chánh niệm tỉnh giác ra khỏi định này thì sẽ vào Diệt thọ tưởng định. Còn một con đường khác, từ Vô sở hữu xứ định, hành giả nổ lực Thiền quán Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) để băng ngang Phi tưởng phi phi tưởng vào Diệt thọ tưởng định. Tại đây, tất cả lậu hoặc được đoạn trừ, chánh trí giải thoát phát khởi biết rằng đã hoàn toàn giải thoát.
     

 * Quảng Tánh - Huyền Ngu ( Phật pháp bách vấn)






Email: nhuphong@thienquan.net

Trở lại trang mặt