Trang mạng Thiền Quán www.thienquan.net Thiền
Dưới
Ánh
Sáng Khoa Học
Lương Y Võ Hà
Thiền là một nét văn hoá đặc sắc của phương Đông. Từ đầu thế kỷ 20, sau khi được du nhập vào phương Tây, thiền đã thoát ra khỏi ranh giới của tôn giáo và nhanh chóng được tiếp nhận như một phương pháp để chữa lành những căn bệnh của xã hội hiện đại do căng thẳng tâm lý gây ra. Ngày nay, với tinh thần khoa học và tính thực tiển của người Âu Mỹ và dưới sự giúp sức của các thiết bị hiện đại, nhiều hiệu quả thực tế của thiền đã dần dần đựoc sáng tỏ. Thiền là quá trình hạ thấp sóng não và giảm chuyển hoáNhiều nghiên cứu khác nhau đã cho thấy trong quá trình ngồi thiền, nhịp thở chậm lại, nhịp tim và huyết áp giảm xuống, sóng não hạ thấp và mức độ chuyển hoá giảm theo. Năm 1967, Giáo sư Herbert Benson, trường Đại học Harvard đã tiến hành nghiên cứu trên 36 người tham gia ngồi thiền. Thí nghiệm cho biết khi ngồi thiền nhu cầu oxy ít hơn bình thường 17%, nhịp tim giảm 3 nhịp mỗi phút và có sự gia tăng sóng theta ở não. Một nghiên cứu khác do hai Giáo sư người Nhật Kasamatsu và Hirai thực hiện trong khi thiền sư Soto ngồi thiền cho thấy có sự xuất hiện tuần tự sóng alpha, gia tăng biên độ sóng alpha, tiếp tục là sự giảm thấp sóng alpha và cuối cùng là sự phát triển sóng theta[i]. Sóng não hạ thấp tương ứng với tình trạng an tĩnh của cơ thể. Sóng beta nhanh và không đều (khoảng 20c/s) ứng với điều kiện tâm lý căng thẳng, nhiều tạp niệm. Sóng alpha (khoảng 8 đến 13c/s) là sóng não ứng với tình trạng thư giãn cơ bắp, tâm lý thoải mái và tinh thần minh mẩn. Sự gia tăng biên độ sóng alpha ứng với tình trạng êm dịu thần kinh. Sóng theta (khoảng 4c/s) thường xuất hiện liền trước lúc ngủ. Khi ngồi thiền, sóng theta sinh ra nhưng con người vẫn tỉnh táo, sóng theta ứng với quá trình nhập tĩnh của hành giả. Ở những người nhập tĩnh sâu, điện não đồ có thể xuất hiện sóng gamma (từ 1 đến 2c/s). Nói chung, sinh hoạt hàng ngày luôn làm cho thần kinh con người ở trong tình trạng căng thẳng, kích thích ở những mức độ khác nhau dễ gây rối loạn thần kinh thực vật, dẫn đến rối loạn hoạt động nội tiết và hoạt động miễn nhiễm. Ngược lại, quá trình hạ thấp sóng não, giảm chuyển hoá và giảm tiêu hao năng lượng của thiền là quá trình chủ động làm cho bộ não được nghỉ ngơi, phục hồi khả năng tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, qua đó cải thiện các chức năng sinh lý của cơ thể và nâng cao khả năng chống lại những sự quấy nhiểu của môi trường bên ngoài. Thiền tạo ra sự khác biệt cụ thể trên não bộ, phát triển trí não và làm chậm sự lão hoá
Các nhà thần kinh học cho rằng não bộ có
thể nhận biết, thích ứng và tự điều chỉnh các
phân tử và các tế bào trên cơ sở kinh
nghiệm và sự luyện tập. Ông Kosslyn, một nhà
tâm thần học nói “Nếu bạn làm một điều
gì đó, bất cứ các gì, ngay cả chơi
bóng bàn , trong 20 năm, mỗi ngày 8 tiếng
thì trong não bộ của bạn sẽ có một sự khác
biệt so với những người không làm việc đó.
Điều nầy là tất yếu”. Gần đây, một
báo cáo của 2 nhà khoa học Arthur F. Kramer
và Mc. Auley trường Đại học Illinois được phổ biến trong
tập san chuyên về lão khoa số tháng 9/2006 của Hội
Khoa học Mỹ đã xác nhận những người già thường
xuyên tập thể dục có thể phát triển vùng
não tương ứng và cải thiện trí nhớ. Người
tham gia thí nghiệm[ii]
là những người có cuộc sống tĩnh tại, tuổi từ 60 đến 79
tuổi. Họ được tập trung mỗi tuần 3 lần để tập những bài
tập aerobic nhẹ -tương tự như một loại thiền động- Sau 6 tháng,
đối chiếu, so sánh bộ não của những người nầy qua những
hình ảnh được chụp bằng máy cộng hưởng từ đã
cho thấy có sự gia tăng đáng kể khối lượng não
giữa trước và sau đợt thí nghiệm. Đối với thiền
tĩnh, kết quả càng khả quan hơn. Bà Sara W. Lazar,
Giáo sư trường Đại học Harvard, là người đồng
nghiên cứu với Tiến sĩ Benson tại Bệnh viện Massachusettes
General Hospital (MGH). Bà cho biết thiền giúp gia
tăng chức năng của bộ não, tăng cường khả năng tập trung tư
tưởng và cải thiện lão hoá. Đặc biệt, thiền
làm gia tăng độ dày của phần vỏ não phía
trước trán. Điều nầy tương phản với quá
trình thoái hoá não ở người
già. Nghiên cứu nầy dựa trên những người
từ 25 đến 50 tuổi, ngồi thiền 40 phút mỗi ngày.
Bà Lazar nói “Ảnh hưởng của thiền định có
thể đảo ngược tiến trình lão hoá”. Thiền là liệu pháp đối trị các bệnh tâm thể
Từ
lâu, khoa học đã phân biệt được mỗi khu vực
não có liên quan đến những cảm xúc hoặc
những khả năng khác nhau của con người. Ngày nay,
với sự hổ trợ của các thiết bị hiện đại, các nhà
khoa học đã xác định được rằng quá trình
ngồi thiền đã hoạt hoá được vùng não
trước trán bên trái, nơi có những tế
bào thần kinh cho ta cảm giác phấn khởi, an lạc.
Chính điều nầy đã giúp cho các vị thiền sư
dễ an định nội tâm, khó bị kích động bởi những cảm
giác hận thù, sợ hải, lo âu. Do đó,
thiền cũng là biện pháp đối trị hửu hiệu đối với
các chứng bệnh do căng thẳng tâm lý gây
ra. Giáo sư Herbert Benson cho rằng phần lớn các bệnh
nhân đến các phòng mạch đều có liên
quan đến stress. Những ca bệnh nầy đáp ứng rất kém
đối với thuốc và phẫu thuật nhưng lại rất tốt đối với các
liệu pháp tiếp cận tâm thể. Đối với các bệnh
có nguồn gốc tâm lý, liệu pháp thiền
là cách chữa tận gốc. Những nghiên cứu về
thiền đều cho thấy thiền làm giảm sự căng cơ, giúp giải
toả sự lo âu, bất an, đặc biệt là làm giảm họat
hoá các nội tiết tố stress. Hiện nay có một
phương pháp thiền đã được chính thức đưa
vào giảng dạy và thực hành lâm sàng
tại nhiều trường Đại học và Bệnh viện ở phương Tây, kể cả
một số trường lớn ở Mỹ như Umass, Stanford, Duke, Virginia, San
Francisco, . .. Đó là MBSR. MBSR là
chữ viết tắt của thuật ngử “Mindfullness Based Stress
Reduction”, tạm dịch là “giảm Stress dựa trên sự
tỉnh giác”. MBSR được xem là một liệu
pháp bổ sung giúp điều chỉnh tinh thần, cảm
xúc và cải thiện sức khoẻ. Đây là một
kỷ thụât phát triển chánh niệm, tức khả năng nhận
biết điều gì xảy ra nơi thân và tâm, qua
đó có thể làm chủ bản thân và điều
hoà cảm xúc. MBSR đã được Giáo sư Jon
Kabat-Zinn khởi xướng đưa vào thực hành lâm
sàng từ đầu những năm 1970. Cho đến nay, hàng chục
ngàn người đã được hưởng lợi từ chương trình huấn
luyện và điều trị nầy. Kết quả cho thấy MBSR giúp
điều trị những bệnh về tim mạch, các chứng đau nhức mãn
tính, rối loạn chức năng ở dạ dày, ruột, chứng đau nửa
đầu, cao huyết áp, mất ngủ, lo âu, hoảng loạn. . . Hiện
nay, trên thế giới đã có hơn 200 bệnh viện hoặc cơ
sở y tế có thực hành điều trị bằng MBSR[iii].
Thiền giúp cải thiện tình trạng rối loạn dương cương.
Hoạt
động cương chịu sự chi phối của hệ thần kinh thực vật gồm 2 hệ
hoạt động đối nghịch nhau và nằm ngoài tầm kiểm
soát của ý chí con người. Hệ đối giao cảm
làm cho mạch máu và các cơ trơn của thể
hang nở ra thu máu đến để gây cương. Hệ giao cảm
làm co mạch nên có thể làm cản trở hoạt động
cương. Do đó, những người dễ bị căng thẳng, lo lắng do
cuộc sống hoặc do cơ địa có thần kinh yếu, thần kinh thực vật dễ
bị rối loạn thường dẫn đến xuất tinh sớm. Đối với những trường
hợp nầy, bên cạnh việc ăn uống hợp lý và vận động
tốt, tác dụng điều hoà thần kinh giao cảm để giảm stress
và gia tăng năng lực kiểm soát cảm xúc của thiền
là biện pháp bổ sung tích cực. Về mặt lưu
thông khí huyết, những đáp ứng thư
giãn trong quá trình ngồi thiền vừa trực
tiếp làm nở mạch vừa kích hoạt tiết ra
thêm chất Nitric oxide[iv]
nên có tác dụng rất tốt trong hoạt động cương
dương. Nitric oxide là một hoá chất quan trọng
có tác dụng làm giãn nở mạch máu
trong cơ chế gây cương. Như vậy, thiền có thể
giúp cải thiện suy nhược sinh dục thông qua 2 cơ chế thần
kinh và nội tiết. Nguyên tắc nầy cũng đã được
vận dụng từ xưa ở phương Đông. Hít thở
sâu và điều hoà, một hình thức tập
trung tư tưởng thông qua quan sát hơi thở để điều
hoà thần kinh giao cảm và kiểm soát cảm xúc
có thể giúp người nam làm chậm lại sự phóng
tinh. Điều nầy từng được ghi lại trong những tác phẩm Tố
Nử Kinh và Ngọc Phòng Bí Quyết, những sách
cổ của Trung Quốc về nghệ thuật phòng trung. Đoạn đối
đáp giũa Tố Nử và Hoàng Đế về kỹ thuật nầy
có ghi[v]
“Phải thở sâu và đếm từ 1 dến 30. Và cứ
thế làm lại nhiêù lần. Công dụng của
cách nầy là làm cho đàn ông có
được sức bền bỉ.” Thiền tăng cường hệ miễn dịchNhiều nghiên cứu cho thấy các phương thức hành thiền khác nhau như quán sát hơi thở, lần chuỗi, niệm kinh, nhẩm số hoặc những cử động lập đi lập lại như đi bộ, đi quyền, đan len. . . đều có khả năng làm gia tăng hệ miễn dịch. Có thể kể đến[vi] những cuộc nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Kundalini ở Boston vào năm 1976 tại Bệnh viện Cựu Chiến Binh La Jolla ở California, thí nghiệm của nhà Tâm lý học Alberto Villoldo ở trường Đại học Sanfrancisco năm 1980. Nhiều người đặc biệt quan tâm đến công trình nghiên cứu của Bác sĩ Carl Simonton về điều trị ung thư trong những năm 1970. Trong những thí nghiệm này ông hướng dẫn cho người bệnh thư giãn và hình dung những bạch cầu của họ là những chiến sĩ tìm và diệt. Đội quân dũng mảnh đã chiến đấu, chiến thắng và mang đi các tế bào ung thư đã chết. Kết quả thí nghiệm trên những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối đã cho biết thời gian sống còn của những bệnh nhân tham gia ngồi thiền tăng lên gấp 2 lần rưởi so với những người không ngồi thiền.
Vào tháng 7/1997, Tiến sĩ Richard Davidson, Giáo
sư Tâm lý học trường Đại học Wisconsin đã tiến
hành một cuộc nghiên cứu[vii]
về tác động của thiền đối với hoạt động thần kinh và khả
năng miễn nhiễm trên 48 đối tượng là nhân
viên của công ty kỹ thuật sinh học Promega (phần lớn những
người này là những nhà khoa học). Những
người nầy được hướng dẫn thực hành thiền mỗi lần 3 giờ,
mỗi tuần một lần, trong thời gian 8 tuần lể. Cuối giai đoạn
8 tuần, những nhân viên ngồi thiền và những
nhân viên khác không ngồi thiền đều được cho
chích ngừa vaccin cúm. Ở thời điểm 4 tuần và
8 tuần sau khi chủng ngừa, tất cả mọi người đều được thử
máu để kiểm tra số lượng kháng thể. Kết quả cho
biết số kháng thể đã gia tăng thêm 50% ở những
người có ngồi thiền so với những người không ngồi
thiền. Như vậy, cuộc thử nghiệm đã cho thấy việc
hành thiền trong một giai đọan ngắn cũng có tác
dụng gia tăng hệ miễn dịch. Quan trọng hơn, khả năng nầy
có thể kéo dài một thời gian sau khi ngưng ngồi
thiền. Thiền giúp cải thiện hành viCác nhà tâm thần học đang cố khám phá xem liệu việc ngồi thiền có thể cải thiện những chương trình của bộ não có khuynh hướng chống xã hội hay không. Mới đây, một cuộc nghiên cứu về tác động của Vipassana, một loại thiền quán niệm hơi thở của Ấn Độ cổ, đối với những tù nhân tại nhà tù Tihar đã được công bố trên tờ the Indian Express số ra ngày 16.12.2006. Nghiên cứu được tiến hành bởi một nhóm sinh viên trường Đại học Vivekanand ở New Delhi. Họ chọn ra 42 tù nhân tình nguyện. Phân nửa số người trên được hướng dẫn thực hành thiền trong thời gian 10 ngày. Sau thời gian thí nghiệm, các tù nhân được đánh giá các tiêu chuẩn về lòng tự trọng, khả năng ổn định cảm xúc và tinh thần trách nhiệm đối với xã hội. Điều ghi nhận được là tất cả những người đã trải qua khoá thiền đều có kết quả tích cực hơn nhiều so với những người không ngồi thiền. Nhà tù Tihar ở New Delhi là nhà tù đầu tiên thực hiện chương trình giáo dục tù nhân thông qua những khoá thiền Vipassana 10 ngày từ năm 1975. Hiện nay chương trình nầy đã được thực hiên ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm Ấn Độ, Israel. Mông Cổ, New Zealand, Taiwan, Thailand, Anh quốc và Hoa Kỳ[viii].
Nghiên
cứu của Giáo sư David Kavanagh tại trường Đại học
Queensland cho thấy đối với những người nghiện rượu, thiền có
khả năng chế ngự đựơc cảm giác thèm rượu. Đối với
thói quen hay ăn vặt dễ dẫn đến béo phì và
các loại bệnh về chuyển hoá khác, nhiều nhà
khoa học cho rằng những người có nhiều áp lực trong cuộc
sống thường có khuynh hướng hay ăn vặt để làm dịu đi
những căng thẳng tâm lý. Trong những trường hợp nầy,
thiền có tác dụng điều hoà thần kinh, giải toả
stress nên có thể chữa được thói xấu nầy. Đối
với những trường hợp bình thường, thiền giúp tạo một tinh
thần thoải mái, lạc quan, dễ hoà hợp là điều rất
rõ ràng. Michael Slater, một nhà sinh học
phân tử ở Promega đã tham gia vào cuộc thực nghiệm
về thiền của ông Davidson đã phát biểu “Quả
thật tôi là một nhà khoa học thực nghiệm trong mọi
lảnh vực của cuộc sống. Tôi nghi ngờ giáo
điều. Tôi đã thử thực hành thiền
và thiền đã thực sự hấp dẫn tôi.
Tôi đã cảm nhận được sự giảm căng thẳng trong
tôi. Tôi bớt gắt gỏng, cau có. Tôi
có khả năng tiếp nhận những áp lực công việc lớn
hơn. Vợ tôi cũng cảm thấy tôi dễ thân cận
hơn. Như vậy, thiền đã có những tác dụng
rõ rệt. Đối với những nhà khoa học thực nghiệm, như
vậy là đủ.” Những người ngồi thiền có
vùng vỏ não trước trán bên trái hoạt
động
nhiều
hơn bên phải nên có tinh thần lạc quan,
dễ chia sẽ, tha thứ. Mặt khác, họ sẽ phục hồi nhanh
chóng sau khi bị tác động bởi những cảm xúc
tiêu cực. Thiền giúp nâng cao chỉ số thông minh cảm xúc
Trước đây, khi nói về sự thành đạt, người ta nhấn
mạnh đến chỉ số thông minh, thường gọi là IQ (Intelligent
Quotient). Tuy nhiên theo nghiên cứu của một số
nhà khoa học, chỉ khoảng 25% số người thành đạt có
chỉ số thông minh trên trung bình. Như vậy,
chỉ số IQ không giải thích được sự thành công
của 75% số người còn lại. Các nhà
nghiên cứu cũng loại trừ nhân tố năng lực chuyên
môn. Cuối cùng, người ta khẳng định thông minh
cảm xúc là yếu tố quyết định sự thành công
của những người này. Đặc biệt trong cuộc sống hiện nay,
nhịp sống nhanh và tính cạnh tranh cao, mỗi người đều dễ
bị tác động bởi Stress thì yếu tố thông minh nầy
càng có ý nghĩa quyết định. Nói
chung, thông minh về mặt cảm xúc (Emotional Intelligence)
hay chỉ số thông minh cảm xúc (Emotional Quotient)
là kỹ năng của một người về việc cảm nhận, đánh
giá và quản lý cảm xúc của cá
nhân mình, của đồng sự hay của đối tác để có
được hiệu quả tối đa trong công việc cũng như trong giao tiếp
xã hội. Hành thiền có thể giúp gia
tăng khả năng kiểm soát cảm xúc, lòng tự tin
và niềm hứng khởi trong công việc. Do đó,
thiền là khâu quan trọng nhất để nâng cao chỉ
số thông minh nầy. Tiến sĩ Daniel Golenan, một chuyên
gia tâm lý thuộc trường Đại học Harvard ở Boston, Mỹ,
là người tiên phong trong việc chuyên nghiệp
hoá lãnh vực đào tạo và huấn luyện về
Thông Minh Cảm Xúc. Ông chủ trương nên
giảng dạy thiền cho các học sinh, sinh viên và
các nhà quản lý để giúp họ kiểm soát
cảm xúc và có khả năng tương tác tốt trong
mọi quan hệ qua đó sẽ giúp họ nâng cao hạnh
phúc gia đình và thành công trong
xã hội.
Tại
Việt Nam, một cuộc hội thảo chuyên đề về “Tập
trung trí tuệ, nắm bắt tương lai” đã được Viện
Nghiên Cứu Giáo Dục thuộc trường Đại Học Sư Phạm
Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày
10.10.2007 vừa qua. Kết quả điều tra mới nhất do công ty
nghiên cứu thị trường Research International thực hiện được
công bố tại cuộc hội thảo đã cho thấy chỉ có
28% học sinh, sinh viên Việt Nam có thể tập trung
hoàn toàn vào công việc hàng
ngày ! Số 72% còn lại cho biết họ thường gặp phải
khó khăn khi phải tập trung trong học tập hoặc trong giao
tiếp. Đây là một thực trạng đáng báo
động. Nguyên nhân và giải pháp
có thể có nhiều. Tuy nhiên, việc đưa hành thiền vào
thời khoá sinh hoạt thường ngày là một biện
pháp mà mỗi cá nhân và gia
đình có thể thực hành được. Còn nhớ,
một năm trước đây báo chí có loan tin về em
Scott Thương, một học sinh người Việt thi đậu vào Đại học năm 14
tuổi. Thương là con ông Trần văn Thưởng, một
giáo sư Toán tại bang Missouri, Hoa Kỳ. Khi trả lời
báo chí về kinh nghiệm giáo dục con cái của
mình, ông Thưởng đã cho biết, bên cạnh việc
truyền đạt cho các em ý chí và động lực của
việc học tập thì việc trau dồi thể chất và tinh thần
là điều rất quan trọng. Ông nói “Mỗi ngày, các em cần
phải có một giờ tập thể dục và nửa giờ ngồi thiền.”
Thiền và cảm giác hợp nhất với vũ trụKhi đề cập đến thiền, đến yoga, người ta thường nói đến sự hoà hợp hay hợp nhất. Hợp nhất giữa thân và tâm, giữa con người và bối cảnh chung quanh và cuối cùng là sự hợp nhất hay tính vô phân biệt giữa cái tôi hửu hạn và cái vô cùng của vủ trụ vạn hửu. Qua nghiên cứu bộ não, các nhà khoa học cho rằng cảm giác hợp nhất và vô giới hạn có liên quan đến thuỳ đỉnh não. Năm 1973, Tiến sĩ Gregg Jacobs, một chuyên gia Tâm thần học thuộc Đại học Harvard qua ghi nhận sóng não và ảnh chụp bộ não của những người ngồi thiền cho biết qúa trình thiền làm giảm hoạt động ở thuỳ đỉnh não, nơi phụ trách các cảm giác về không gian và thời gian. Bằng cách “tắt” thuỳ đỉnh não, hành giả sẽ có khuynh hướng mất đi cảm giác giới hạn để tiến đến sự hoà hợp và thấy mình và vủ trụ trở thành một. Tóm lại, dù thiền ngắn hạn hay dài hạn, ảnh hưởng của thiền đối với việc cải thiện các điều kiện tâm lý hoặc thể chất là điều rất rõ ràng. Những kết quả nầy cũng được thể hiện trong đánh giá của Bác sĩ Stephanie Steven, một chuyên gia về tim mạch và các liệu pháp bổ sung qua một bài viết[ix] trên báo Danvers Herald, MA, Mỹ ngày 12.1.2006 “Thiền định làm cho cơ thể bình lặng và an định, áp suất máu giảm , nhịp tim chậm lại. Quá trình thiền khiến một số biến đổi tâm thể lý xảy ra giúp cải thiện sức khoẻ, giảm đau đớn, giảm căng cơ, giảm tính cáu kỉnh, gíup ăn ngon và tăng cường hệ miễn dịch”. [i] Katsuki Sekida. Zen Training. Shambhala Classics. 2005. Tr63 [ii] Exercise shown to reverse brain deterioration brought by aging. www.news.uiuc.edu/news/06 [iii] Jon Kabat-Zinn. Mindful Yoga (www.steveshealphd.com) [iv] Tom Corwin. Form of meditation may improve health. http://chronicle.augusta.com [v] Tố Nử Kinh. Hoàng Đông Bích (dịch). Xuân Thu XB. USA [vi] Nancy Poitou M.D. Meditation for Health. http://mysite.verizon.net/nancy-poitou. [vii] Stephan S. Hall. Is Buddishm good for your health. The New York Times. Sept.14.2003 [viii] Vipassana Meditation Courses for correction facilities. www.prison.dhamma.org [ix] Stephanie Stevens. Meditation,an oasis from everyday stress. Danvers Herald. Jan.12.2006. Lương Y Võ Hà Nguồn: http://www.ykhoanet.com |