Trang mạng
Thiền
Quán
www.thienquan.net
Kinh
Pháp Bảo Đàn
Lục Tổ Huệ
Năng
Tỳ Kheo
Thích Duy Lực
Dịch và Lược
Giải
Từ
Ân Thiền Ðường, Santa Ana Xuất Bản 1992
------------------------------------------------
Lời Dịch Giả
Phẩm Tựa
Phẩm Bát Nhã
Phẩm Nghi Vấn
Phẩm Định Huệ
Phẩm Tọa Thiền
Phẩm Sám Hối
Phẩm Cơ Duyên
Phẩm Đốn Tiệm
Phẩm Hộ Pháp
Phẩm Phó Chúc
-
-
Pháp Bảo
Ðàn Kinh là một quyển Kinh chuyên hoằng
Pháp Ðốn Giáo của Thiền Tông, do Lục Tổ Huệ
Năng giảng và Ngài Pháp Hải ghi lại, nay đã
dịch sang nhiều thứ tiếng và đã phổ biến trên thế
giới.
-
Lục Tổ là
người không biết chữ nhưng nói ra lời nào cũng
đúng ý Phật. Tổ nói: Diệu lý của chư Phật
chẳng dính dáng với văn tự. Như vậy người đọc nên
được ý quên lời, chớ nên chấp lời nghịch ý.
Như Lục Tổ nói: Nay ta gượng nói ra, khiến ông bỏ
tà kiến, chớ hiểu theo lời nói, mới cho biết ít
phần.
-
Chớ hiểu theo
lời nói là chớ chấp lời mà nghịch ý; mới
cho biết ít phần là được ý mà quên
lời, nói được ý là phải đốn ngộ ý của Tổ,
cũng là ý của Phật vậy. Phật nói: Sự suy lường
phân biệt chẳng thể hiểu được pháp này. Hễ
nói đã chứng thì chẳng thể tỏ rõ cho người
biết, nếu nói chẳng chứng thì thuyết lý chẳng thể
liễu triệt, nên pháp đốn giáo này chẳng phải
muốn người hiểu theo lời, cần phải tự tin, tự tu, tự chứng, tự ngộ mới
được. Nếu chỉ dùng miệng luận bàn, dùng tâm
suy lường là trái với ý Tổ. Phật có
nói: Như Lai dùng tất cả thí dụ để diễn đạt mọi
việc thì được; nhưng chẳng thí dụ nào có
thể diễn đạt pháp này. Tại sao vậy? Vì tự
tánh bất khả tư nghì, tâm trí chẳng đến
được. Vậy phải tin rằng: miệng luận bàn, tâm suy lường
là việc chướng đạo vậy.
-
Ðối với
pháp thế gian thì dùng miệng luận bàn,
dùng tâm suy lường có thể thấu hiểu được; với
pháp xuất thế gian dùng miệng luận bàn,
dùng tâm suy lường lại càng xa với Ðạo. Cổ
Ðức nói: Ðối với việc này, có tâm
chẳng thể cầu, vô tâm chẳng thể đắc, ngôn ngữ chẳng
thể thông đạt, im lặng chẳng thể thấu suốt. Quyển Kinh
này, mỗi phẩm đều có tỏ bày ý chỉ như thế,
xin độc giả tự xét kỹ xem! Nói tóm lại,
PHÁP ÐỐN GIÁO này là khai thị cho người
học Ðạo để y theo CHÁNH PHÁP tu hành cho đến
đốn ngộ mà thôi.
Thích Duy Lực
Phẩm Tựa Thứ Nhất
Khi Sư đến chùa Bảo Lâm, có châu
trưởng Thiều Châu tên là Vi Cứ và các
quan chức vào núi thỉnh Sư ra chùa Ðại Phạn ở
trong thành vì tứ chúng khai duyên thuyết
pháp. Sư thăng toà, Vi Thứ Sử (châu trưởng)
và các quan chức hơn ba chục người, học sĩ nhà nho
hơn ba mươi người, Tăng Ni cư sĩ hơn ngàn người, đồng thời đảnh
lễ xin nghe Pháp Yếu.
Sư nói: Thiện tri thức, tự tánh của Bồ Ðề vốn thanh
tịnh, chỉ dụng tâm này trực liễu thành Phật.
Thiện tri thức, hãy nghe việc đắc Pháp và sự việc
của Huệ Năng. Huệ Năng quê quán ở Phạm Dương, cha bị
giáng chức đến Lãnh Nam, lưu lạc làm dân
Tân Châu. Thân thế chẳng may cha lại mất sớm, mẹ
là goá phụ, nhà ở Nam Lộ, nghèo khổ phải đi
bán củi ngoài chợ. Lúc ấy có vị
khách mua củi nhờ mang đến nhà, Huệ Năng được tiền đi ra,
gặp một vị khách đang tụng Kinh, Huệ Năng nghe được lời Kinh
tâm liền khai ngộ, bèn hỏi khách tụng Kinh
gì? Khách nói là Kinh Kim Cang.
Hỏi: Ở đâu có Kinh
Ðiển này?
Khách nói: Tôi từ
Chùa Ðông Thiền, huyện Huỳnh Mai Kỳ Châu đến.
Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ðại Sư chủ hoá,
môn đồ hơn ngàn người, tôi đến đó lễ
bái lãnh thọ Kinh này. Ngũ Tổ thường khuyên
Tăng tục trì Kinh Kim Cang thì được kiến tánh,
trực liễu thành Phật.
Huệ Năng nghe
nói, lại cũng vì xưa kia có duyên, nên
được một người khách cho mười lượng bạc để cho mẹ già
được sinh sống và bảo đi ngay đến Huỳnh Mai tham lễ Ngũ Tổ. Huệ
Năng sắp xếp cho mẹ xong, liền từ giã lên đường. Trải qua
hơn ba mươi ngày đường, đến huyện Huỳnh Mai lễ bái Ngũ Tổ.
Tổ hỏi: Ông là người
phương nào, muốn cầu việc gì? Huệ Năng nói: Ðệ
tử là dân Tân Châu Lãnh Nam, từ xa đến
lễ bái, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu việc gì
khác.
Tổ nói: Ông là
người Lãnh Nam, cũng là người kém văn hoá,
làm sao có thể làm Phật được?
Huệ Năng nói: Người có
Nam Bắc, Phật tánh vốn chẳng có Nam Bắc, thân
hèn hạ này với thân Hoà Thượng chẳng đồng,
nhưng Phật tánh đâu có sai biệt!
Ý Ngũ Tổ
còn muốn nói thêm, nhưng thấy đồ chúng đứng
xung quanh, nên bảo theo chúng làm việc.
Huệ Năng bạch Hoà Thượng: Tự
tâm của đệ tử thường sanh trí huệ chẳng lià tự
tánh, tức là phước điền, chưa rõ Hoà Thượng
bảo làm việc gì?
Tổ nói: Tên kém văn
hoá này căn khí lanh lợi, ngươi đừng nói
nữa, hãy ra nhà sau đi!
Huệ Năng lui đến
nhà sau, có một cư sĩ sai Huệ Năng bửa củi giã
gạo, trải qua hơn tám tháng. Một ngày kia Tổ
thình lình đến gặp Huệ Năng nói:Ta nghĩ cái
thấy của ngươi dùng được, vì sợ có kẻ ác
hại ngươi, nên chẳng nói chuyện với ngươi, ngươi có
biết chăng?
Huệ Năng nói: Ðệ tử cũng
biết ý của Thầy, nên chẳng dám đi đến nhà
trước.
Một ngày
kia, Ngũ Tổ triệu tập môn đồ bảo rằng: Sanh tử là việc
lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu
lià khỏi biển khổ sanh tử, tự tánh nếu mê, phước
làm sao có thể cứu được? Các ngươi mỗi người
hãy tự xem trí huệ, dùng bổn tâm Bát
Nhã của tự tánh, mỗi người làm một bài kệ
trình cho ta xem, nếu ngộ được đại ý, thì ta sẽ
trao truyền y bát cho làm Tổ thứ sáu; hãy
mau lên chẳng được chậm trễ, hễ lọt
vào suy lường thì chẳng dùng được. Người
kiến tánh vừa nghe phải liền thấy, nếu được như vậy thì
khi ra trận giữa đao kiếm cũng phải thấy được.
Ðại
chúng nghe xong nói với nhau rằng: Chúng ta chẳng
cần nhọc tâm mệt trí làm kệ, đâu có
ích gì, vì có Thượng Tọa Thần Tú
hiện làm giáo thọ sư, chắc chắn sẽ được, chúng ta
làm kệ chỉ phí sức thôi, chúng ta về sau y
chỉ Sư Thần Tú cũng được rồi. Ngài Thần Tú suy
nghĩ: Ðại chúng chẳng trình kệ, vì ta
là giáo thọ sư của họ, ta phải làm kệ trình
Hoà Thượng. Nếu chẳng trình kệ thì Hoà
Thượng làm sao biết được kiến giải sâu cạn trong tâm
ta, ý của ta trình kệ vì cầu Pháp
thì tốt, vì mong làm Tổ thì không
nên, chẳng khác nào dùng tâm
phàm mà đoạt Thánh vị. Nếu chẳng trình kệ
thì làm sao đắc Pháp được, thực khó! Thực
khó!
Nơi hành
lang trước Pháp đường, Ngũ Tổ định mời họa sĩ đến vẽ Biến Tướng
Kinh Lăng Già và Ngũ Tổ Huyết Mạch Ðồ, để cúng
dường và lưu truyền đời sau. Khi Thần Tú làm kệ
xong, mấy lần muốn vào trình, nhưng khi đến trước
Pháp đường thì trong tâm bấn loạn, mồ hôi ướt
đẵm mình. Như vậy trải qua bốn ngày, mười ba lần muốn
vào trình vẫn chưa trình được, sau cùng
Thần Tú suy nghĩ: Chi bằng ghi trên vách tường
hành lang để Hoà Thượng thấy được; nếu Tổ nói tốt
thì ta ra lễ bái nói của Thần Tú
làm, nếu nói là chẳng được thì uổng
công ta ở núi mấy năm, lại tu Ðạo gì mà
được nhận lễ bái của người! Nửa đêm đó không
cho ai hay, tự cầm đèn viết kệ trên vách
hành lang phiá Nam, trình sở thấy của tự
tâm, kệ rằng:
Thần Tú
viết kệ xong, liền về phòng, không ai hay. Tú lại
suy nghĩ: Ngày mai, Ngũ Tổ thấy kệ hoan hỷ thì ta
có duyên với Pháp, nếu nói không được
thì đó là tại ta còn mê, nghiệp
chướng xưa nặng nề, chẳng đặng đắc Pháp, Thánh ý
thật khó lường! Tú ở trong phòng suy nghĩ, ngồi
nằm chẳng yên cho đến gần sáng.
Tổ đã
biết Thần Tú chưa được vào cửa, chẳng thấy tự
tánh. Trời sáng, Tổ kêu hoạ sĩ đến hành lang
để vẽ, thình lình thấy kệ, bèn nói với họa
sĩ: Thôi, chẳng cần vẽ nữa, làm lao nhọc cho ông từ
xa đến đây.
Kinh nói:
Phàm tất cả tướng đều là hư vọng. Nay chỉ cần để
bài kệ này cho người trì tụng, y kệ này tu,
khỏi đọa ác đạo, y kệ này tu, được ích lợi lớn.
Bèn kêu môn đồ đốt nhang kính lễ, bảo cả thảy
đều tụng kệ này sẽ được kiến tánh. Môn đồ tụng kệ
đều khen: lành thay!
Nửa đêm Tổ
kêu Thần Tú vào phòng hỏi: Kệ phải do
ông làm chăng? Tú nói: Thiệt là
Tú làm, chẳng ham vọng cầu Tổ vị, mong Hoà Thượng
từ bi, xem đệ tử có chút ít trí huệ chăng?
Tổ nói: Ông làm kệ
này chưa thấy bản tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa
vào trong, kiến giải như thế tìm vô thượng bồ đề
chẳng thể được. Vô thượng bồ đề phải khi
vừa nói liền nhận tự bổn tâm, thấy tự bản tánh,
chẳng sanh chẳng diệt, với bất cứ giờ nào, niệm niệm tự thấy,
chẳng kẹt vào vạn pháp, nhứt chơn nhứt thiết chơn, vạn
cảnh tự như như, cái tâm như như tức là chân
thật. Nếu thấy như thế tức là vô thượng bồ đề của tự
tánh. Ông tạm đi ra suy nghĩ một vài
ngày nữa, làm bài kệ khác cho ta xem, nếu
kệ ông vào được cửa, thì ta sẽ truyền trao y
pháp.
Thần Tú
đảnh lễ lui ra, trải qua mấy ngày sau làm kệ chẳng được,
trong tâm rối loạn tâm thần chẳng yên, cũng như trong
mộng, đi ngồi chẳng vui.
Qua hai
ngày sau, có một đồng tử đi ngang qua phòng
giã gạo, xướng tụng bài kệ, Huệ Năng nghe được liền biết
kệ này chưa thấy bản tánh, dù chưa được sự dạy bảo
của Tổ, nhưng đã biết được đại ý, bèn hỏi đồng tử
rằng: Tụng kệ gì? Ðồng tử nói: Kẻ kém văn
hoá này chẳng biết, Ðại Sư nói: Sanh tử
là việc lớn, muốn truyền trao y pháp, nên bảo
môn đồ làm kệ trình xem, nếu ngộ đại ý
thì sẽ được truyền trao y pháp làm Tổ thứ
sáu. Thượng Tọa Thần Tú viết kệ Vô Tướng trên
vách tường hành lang. Ðại Sư bảo mọi người đều tụng,
y kệ này tu khỏi đọa ác đạo, y kệ này tu sẽ được
lợi ích lớn.
Huệ Năng nói: Thưa Thượng nhơn,
tôi giã gạo ở đây hơn tám tháng, chưa
từng đi đến nhà trước, mong Thượng nhơn dẫn tôi đến trước
bài kệ lễ bái. Ðồng tử liền dẫn đến trước bài
kệ, lễ bái xong,
Huệ Năng nói: Huệ Năng chẳng
biết chữ, xin Thượng nhơn đọc giùm. Lúc ấy có quan
biệt giá Giang Châu là Trương Nhựt Dụng, liền lớn
tiếng đọc, Huệ Năng nghe xong bèn
nói: Tôi cũng có một bài kệ, xin Biệt
Giá viết giùm. Biệt Giá nói: Ông cũng
làm kệ à, việc này hi hữu!" Huệ Năng nói
với Biệt Giá rằng: Muốn học Vô Thượng Bồ Ðề, chẳng
nên khinh bỉ kẻ sơ học, hạ hạ nhơn hữu thượng thượng trí,
thượng thượng nhơn hữu một (chìm mất) ý trí. Biệt
Giá nói: Ông hãy tụng kệ đi, ta viết
giùm cho. Ông nếu đắc pháp phải độ ta trước, về sau
chớ quên lời này.
Huệ
Năng kệ rằng:
Kệ viết xong, đồ
chúng đều ngạc nhiên tán thán với nhau: Lạ
thay, chẳng nên theo tướng mạo mà đánh giá
người, không ngờ nay có nhục thân Bồ Tát
mà chẳng biết!
Tổ thấy đại
chúng kinh quái, sợ người ám hại, nên lấy
giày bôi bài kệ, nói rằng: Cũng chưa thấy
tánh. Mọi người cho là phải. Hôm sau Tổ lén
đến nhà giã gạo, thấy Huệ Năng lưng đeo đá
giã gạo, nói rằng: Người cầu Ðạo cần phải như thế.
Lại hỏi: Gạo trắng chưa? Huệ Năng đáp: Trắng
đã lâu, còn thiếu
giần sàng thôi. Tổ lấy gậy gõ trên cối
ba cái rồi bỏ đi. Huệ Năng hiểu ý Tổ, nên canh ba
vào thất. Tổ dùng Ca sa che lại không cho người
thấy, rồi thuyết Kinh Kim Cang, đến câu: Ưng vô sở trụ nhi
sanh kỳ tâm thì Huệ Năng ngay đó đại ngộ tất cả vạn
pháp chẳng lià tự tánh, bèn bạch Tổ rằng:
- Ðâu ngờ tự
tánh vốn tự thanh tịnh,
- Ðâu ngờ tự
tánh vốn chẳng sanh diệt,
- Ðâu ngờ tự
tánh vốn tự đầy đủ,
- Ðâu ngờ tự
tánh vốn chẳng lay động,
- Ðâu ngờ tự
tánh hay sanh vạn pháp!
Tổ biết Huệ Năng đã ngộ bản tánh, nên
nói với Huệ Năng rằng: Chẳng nhận được bổn
tâm, học pháp vô ích, nếu nhận được bổn
tâm, thấy được bổn tánh, tức gọi là Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật. Nửa đêm thọ pháp chẳng ai biết,
Tổ bèn truyền pháp đốn giáo và y bát
nói rằng: Ngươi là Tổ thứ
sáu, khéo tự hộ niệm, độ khắp hữu tình, phổ biến
lưu truyền cho đời sau, đừng để đoạn dứt.
Nghe ta nói kệ đây:
LƯỢC GIẢI: Sinh vật
có hai loại: hữu tình là động vật, vô
tình là thực vật. Hữu tình mới được gieo giống
Phật, vô tình thì không; có giống
là nhơn, ắt sẽ sanh quả. Nhơn địa là hữu tình, quả
địa là Phật. Vô tình chẳng phải nhơn địa của Phật
nên chẳng phải là giống (vô chủng). Tất cả
pháp vốn chẳng có tự tánh, nên nói
vô tánh. Vậy thì hữu tình và vô
tình, Phật và chúng sanh đều chẳng có tự
tánh, cũng là pháp vô sanh vậy. Nên
nói: Vô tánh diệc vô sanh. Vì
đây là kệ truyền pháp, kệ truyền pháp chẳng
được lọt vào tứ cú.
- Hỏi: Ðã
nói không lọt vào tứ cú, tại sao nói
vô tánh diệc vô sanh? Như vậy là lọt
vào cú thứ nhì rồi?
- Ðáp:
Nói tất cả pháp vốn chẳng tự tánh thì
làm sao có vô tánh và vô sanh
để làm tự tánh! Hành giả đọc đến chỗ này,
chớ nên dùng ý thức để lãnh hội, cho
là đúng hay không đúng: Ðã
nói pháp vô sanh thì làm sao sanh ra
pháp đúng và pháp không đúng?
Ðây là cửa ải của Thiền môn, cần phải thấu qua
(tự ngộ) mới được.Kệ này lược giải là để phá chấp,
còn muốn hiểu ý Tổ, cần phải tự tham ngộ mới được.
Tổ lại nói: Khi xưa Ðạt Ma
Ðại Sư mới tới xứ này, vì người ta chưa đủ
lòng tin, nên mới truyền y bát để làm
tín thể (vật làm tin) đời đời truyền nhau thành
pháp tắc, lấy tâm truyền tâm đều bảo tự ngộ tự giải,
từ xưa Phật Phật chỉ truyền bản thể, Tổ Tổ mật phó bản
tâm. Y bát là mối tranh giành, tới đời ngươi
phải ngưng truyền. Nếu truyền y bát là việc rất nguy
hiểm, ngươi phải đi cho mau, kẻo có người ám hại.
Huệ Năng bạch rằng: Ði xứ
nào?
Tổ nói: Gặp Hoài
thì ngừng, gặp Hội thì ẩn.
Canh ba
lãnh y bát xong, Huệ Năng được Ngũ Tổ đưa đến bến
đò Cửu Giang. Xuống thuyền, Huệ Năng giành chèo.
Tổ nói: Ðúng ra ta
phải độ.
Huệ Năng nói: Khi mê
thì Thầy độ, ngộ rồi tự độ." (Ðộ
có hai nghiã: 1-Cứu độ. 2-Ðưa đò.) Nói độ là một, nhưng chỗ dùng
chẳng đồng. Huệ Năng sanh nơi biên địa nên giọng nói
khó nghe. Ðược Thầy truyền pháp, nay đã được
ngộ, chỉ nên tự tánh tự độ vậy.
Tổ nói: Như thế! Như thế! Về sau
Phật Pháp do ngươi được thịnh hành, ngươi cứ hướng về
phiá Nam mà đi, chẳng nên thuyết pháp sớm,
vì Phật Pháp phải tùy duyên.
Huệ Năng từ biệt
Tổ, hướng về Nam trải qua hai tháng tới núi Ðại Du
Lãnh. Ngũ Tổ trở về, mấy ngày chẳng thượng đường, đại
chúng nghi ngờ hỏi: Hoà Thượng có bệnh gì
chăng? Tổ nói: Bệnh thì không có, nhưng y
pháp đã về Nam rồi. Hỏi: Ai được truyền thụ?
Ðáp: Kẻ nào Năng thì được.
Khi ấy đại
chúng mới biết, nên có mấy trăm người đuổi theo để
đoạt y bát, trong đó có một Tăng tên tục
là Trần Huệ Minh ngày trước làm Tứ Phẩm tướng
quân, tánh tình thô bạo, dẫn đầu đi trước,
đuổi kịp Huệ Năng. Huệ Năng bỏ y bát
trên tảng đá nói rằng: Y bát
là vật làm tin, há dùng sức mà đoạt
được sao? Liền ẩn mình trong đám cỏ. Huệ Minh đến, muốn
lấy y bát mà chẳng nhúc nhích được, liền
kêu: Hành giả! Hành giả!
Tôi vì Pháp đến, chẳng vì Y đến. Huệ
Năng liền ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh đảnh lễ
nói rằng: Mong hành giả vì tôi thuyết
Pháp. Huệ Năng nói:Ông đã vì Pháp mà
đến đây, thì nên ngưng nghỉ các duyên,
chớ sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà thuyết.
Một hồi sau Huệ
Năng nói: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ
ác, đang khi ấy cái nào là bổn lai diện mục
của Thượng Tọa Minh? Huệ Minh ngay đó đại ngộ, lại hỏi
rằng: Ngoài lời mật ý kể trên, còn có
ý nào bí mật chăng? Huệ Năng
nói: Ðã nói với ông thì
chẳng phải mật rồi, nếu ông phản chiếu thì mật tại
bên ông. Minh nói: Huệ
Minh dù ở Huỳnh Mai, thật chưa tỉnh ngộ diện mục của tự kỷ, nay
được khai thị, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Nay
hành giả tức là Thầy của Huệ Minh vậy. Huệ Năng nói: Nếu ông như thế,
thì ta với ông cùng thờ một Thầy Huỳnh Mai,
hãy khéo tự hộ trì.
Huệ Minh lại hỏi: Huệ Minh về sau đi xứ
nào? Ðáp: Gặp
Viên thì ngừng, gặp Mông thì ở.
Minh đảnh lễ
giã từ. (Minh trở xuống chân núi, nói với
đại chúng rằng: Chẳng thấy dấu vết nào hết, phải đi hướng
khác mà tìm. Chúng đều tin. Về sau Huệ Minh
đổi tên thành Ðạo Minh để tránh sự trùng
tên với Thầy).
Huệ Năng đến
Tào Khê, bị bọn ác tìm theo, nên phải
lánh nạn trong đám thợ săn nơi Tứ Hội, trải qua mười lăm
năm, thường vì thợ săn tùy nghi thuyết pháp. Bọn
họ bảo giữ lưới, mỗi khi thấy cầm thú lọt vào đều thả ra
hết. Tới bữa ăn, gởi rau trong nồi thịt, có người hỏi thì
trả lời: Chỉ ăn rau luộc bên cạnh thịt mà thôi.
Một ngày
kia nghĩ rằng: Ðã đến lúc phải hoằng Pháp,
không nên ẩn hoài", liền ra chùa Pháp
Tánh Quảng Châu, gặp Ấn Tông Pháp Sư giảng
Kinh Niết Bàn. Có hai vị Tăng tranh luận về nghiã
gió và lá phướn; kẻ nói gió động,
người nói phướn động, tranh cãi không ngừng, Huệ
Năng chen vào nói: Chẳng phải gió động, chẳng phải
phướn động, mà là tâm các ông động."
Cả chúng đều ngạc nhiên. Ấn Tông mời Năng ra ngồi
trên Cao Toà, hỏi những nghiã lý thâm
sâu, thấy Huệ Năng lời gọn mà đúng lý, chẳng
do văn tự.
Ấn Tông nói: Hành
giả ắt chẳng phải người thường, lâu nay đã nghe Y
Pháp Huỳnh Mai về Nam, có phải là hành giả
chăng?
Huệ Năng nói: Không
dám."
Ấn Tông
liền đảnh lễ, xin thỉnh Y Bát ra cho đại chúng xem.
Ấn Tông hỏi rằng: Sự phó
chúc của Huỳnh Mai truyền thọ như thế nào? Huệ Năng nói: Truyền thọ thì
không, chỉ cần kiến tánh, chẳng cần thiền định giải
thoát.
Ấn Tông hỏi: Tại sao chẳng cần
thiền định giải thoát?
Ðáp:
Vì đó là nhị pháp, chẳng phải Phật
Pháp. Phật Pháp là pháp bất nhị.
Ấn Tông lại hỏi: Thế nào
là Pháp Bất Nhị của Phật Pháp?
Ðáp: Pháp Sư
giảng Kinh Niết Bàn, đã rõ Phật tánh
là Pháp Bất Nhị của Phật Pháp! Như trong Kinh Niết
Bàn nói: Cao Quý Ðức Vương Bồ Tát bạch
Phật rằng: Phạm tứ trọng cấm (bốn giới trọng nhất
trong giới Tỳ kheo, giống như người thế gian phạm tội tử hình),
làm tội ngũ nghịch và nhất xiển đề, phải bị đoạn dứt
thiện căn Phật tánh không? Phật
nói: Thiện căn có hai, một
là thường, hai là vô thường, Phật tánh phi
thường phi vô thường, nên chẳng đoạn dứt, gọi là bất
nhị. Một là thiện, hai là bất thiện, Phật tánh phi
thiện, phi bất thiện, gọi là bất nhị. Uẩn và Giới,
phàm phu thấy cho là nhị, người trí liễu đạt
thì biết tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức
là Phật tánh vậy. Ấn Tông nghe xong hoan hỷ
chắp tay rằng: Tôi giảng Kinh như gạch nát ngói bể,
ông giảng nghiã cũng như vàng ròng. Do
đó, vì Huệ Năng xuống tóc, nguyện thờ làm
Thầy.
Huệ Năng
bèn ở nơi gốc cây Bồ Ðề khai giảng Pháp
môn Ðông Sơn (Ngũ Tổ): Huệ Năng đắc pháp nơi Ðông Sơn, chịu
nhiều cay đắng, gặp nhiều nguy hiểm, tánh mạng tựa như chỉ
mành, hôm nay được cùng các quan, các
Tăng Ni đạo tục đồng tụ tại hội này, là do quá khứ
nhiều kiếp cúng dường chư Phật, cùng gieo thiện căn mới
được nghe cái nhơn đắc pháp và Pháp Ðốn
Giáo kể trên. Giáo Pháp là do bậc
Thánh xưa truyền lại, chẳng phải tự trí của Huệ Năng.
Người muốn nghe Giáo Pháp của bậc Thánh xưa, phải
làm cho tâm thanh tịnh (trong
sạch), nghe rồi phải tự đoạn trừ nguồn gốc
nghi ngờ giống như các bậc Thánh xưa chẳng có
khác biệt. Ðại chúng
nghe pháp xong hoan hỷ đảnh lễ lui ra.
Phẩm Bát Nhã Thứ Hai
Qua ngày
sau, Vi Sử Quân lại xin giảng nữa, Sư thăng toà bảo đại
chúng rằng: Cần phải tĩnh tâm niệm Ma Ha Bát
Nhã Ba La Mật Ða. Lại nói: Thiện tri thức, trí
bồ đề Bát Nhã của chúng sanh vốn tự có, chỉ
vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ đại thiện tri
thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh. Phải biết Phật
tánh của kẻ ngu người trí vốn chẳng sai biệt, chỉ
vì mê ngộ chẳng đồng, nên mới có kẻ ngu người
trí. Nay ta thuyết Pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La
Mật, khiến cho mọi người đều được trí huệ, hãy chú
tâm nghe: Thiện tri thức, người đời suốt
ngày miệng niệm BÁT
NHÃ, chẳng nhận được TỰ TÁNH BÁT NHÃ, cũng như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ
thuyết KHÔNG, muôn kiếp chẳng được KIẾN TÁNH, rốt
cuộc vô ích.
Thiện tri thức, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là
tiếng Phạn, dịch là đại trí huệ đến bờ bên kia,
đây cần phải tâm hành, chẳng ở miệng niệm, miệng
niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hoá.
Miệng niệm tâm hành, thì tâm và miệng
tương ưng. Bản tánh là Phật, lià tánh chẳng
có Phật.
Sao gọi
là Ma Ha? Ma Ha là đại,
tâm lượng quảng đại như hư không, chẳng có
biên giới, cũng chẳng vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng
phải xanh vàng đỏ trắng, cũng chẳng trên dưới dài
ngắn, cũng chẳng giận, chẳng vui, chẳng phải chẳng quấy, chẳng thiện
chẳng ác, chẳng đầu chẳng đuôi. Các cõi Phật
đều đồng như hư không, diệu tánh con người vốn
không, chẳng có một pháp có thể đắc, tự
tánh chơn không cũng như thế. Thiện
tri thức, chớ nên nghe ta nói KHÔNG mà liền chấp KHÔNG. Trước nhất chớ chấp KHÔNG, nếu để tâm KHÔNG tĩnh tọa là lọt vào VÔ KÝ KHÔNG. Thiện tri thức, thế giới hư không bao
hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời mặt trăng, núi sông
đất đai, cây cối, biển lớn, kẻ dữ người lành, pháp
ác pháp thiện, thiên đàng địa ngục, tất cả
đều ở trong hư không, TÁNH
KHÔNG của con người cũng vậy. Thiện tri thức, tự
tánh hay bao hàm muôn pháp là ЀI,muôn
pháp đều ở trong tự tánh của con người. Nếu thấy
điều dữ điều lành của người, tất cả đều chẳng lấy chẳng bỏ,
chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như hư không gọi là ЀI, nên nói là MA HA. Thiện tri thức, kẻ mê miệng
nói, người trí tâm hành. Lại có kẻ
mê để tâm không mà tĩnh tọa, trăm điều chẳng
nghĩ, tự xưng là đại, với bọn người này không thể
nói gì được, vì họ bị rơi vào tà
kiến. Thiện tri thức, tâm lượng quảng đại cùng khắp
pháp giới, dùng thì liễu liễu rõ
ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất cả,
tới lui tự do, tâm thể vô ngại tức là BÁT NHÃ.
Thiện tri thức, tất cả TRÍ BÁT NHÃ đều từ tự tánh mà sanh, chẳng từ
bên ngoài vào, chớ lầm dùng ý thức,
gọi là chơn tánh tự dụng. Nhất chơn nhất thiết chơn,
tâm lượng là việc lớn, chẳng nên hành đạo
nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói không mà trong
tâm chẳng tu hạnh này, giống như thường dân tự xưng
là vua thì không được, hạng người này chẳng
phải đệ tử của ta.
Thiện tri thức,
sao gọi là BÁT NHÃ?
BÁT NHÃ dịch là trí huệ. Bất cứ nơi
nào lúc nào, niệm niệm chẳng ngu muội (chẳng chấp thật), thường hành
đúng trí huệ, tức là hạnh BÁT
NHÃ. Một niệm ngu muội (chấp thật)
thì BÁT NHÃ tuyệt,
một niệm trí huệ thì BÁT
NHÃ sanh. Con người ngu mê chẳng thấy BÁT
NHÃ, miệng nói BÁT NHÃ mà trong
tâm thường ngu muội, tự nói ta tu BÁT NHÃ,
niệm niệm nói KHÔNG mà chẳng biết CHƠN KHÔNG.
BÁT NHÃ không
hình tướng, ấy là tâm trí huệ, nếu hiểu thấu
như thế gọi là TRÍ BÁT NHÃ.
Sao gọi Ba La Mật? Ba La Mật
là tiếng Ấn Ðộ, dịch là đến bờ bên kia,
nghiã là lià sanh diệt. Chấp cảnh thì sanh
diệt dấy lên như nước nổi làn sóng, tức gọi bờ
bên này, lìa cảnh thì chẳng sanh diệt như
nước chảy im lìm, tức là bờ bên kia, nên gọi
Ba La Mật. Thiện tri thức, kẻ mê miệng niệm, đang trong
lúc niệm có vọng có sai, niệm niệm nếu
hành, gọi là chơn tánh. Kẻ ngộ pháp
này là PHÁP BÁT NHÃ, kẻ tu hạnh
này là H€NH BÁT NHÃ, chẳng tu tức là
phàm phu, một niệm tu hành, tự thân bằng Phật.
Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền
não tức Bồ Ðề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm
sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau
lià cảnh tức Bồ Ðề.
Thiện tri
thức! MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT,
tối cao tối thượng tối đệ nhất, không trụ không đi cũng
không đến, tam thế chư Phật từ đó ra. Cần phải dùng
ЀI TRÍ HUỆ, phá ngũ uẩn phiền não trần lao,
tu hành như thế, nhất định thành Phật, đổi TAM ÐỘC
thành GIỚI, ÐỊNH, HUỆ. Thiện tri thức, pháp môn
này từ một BÁT NHÃ mà sanh ra tám
mươi bốn ngàn trí huệ. Tại sao vậy? Vì con người
có tám mươi bốn ngàn trần lao, nếu không
có trần lao thì trí huệ luôn luôn hiển
hiện, chẳng lià tự tánh. Người ngộ pháp này
tức là vô niệm, vô ức (không
ghi nhớ), vô nhiễm trước, chẳng khởi cuồng vọng. Ðối
với tất cả pháp, dùng trí huệ của chơn như tự
tánh chiếu soi, chẳng lấy chẳng bỏ, tức là KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT. Thiện tri
thức, muốn đi vào pháp giới thâm sâu
và BÁT NHÃ TAM MUỘI, phải tu hạnh BÁT NHÃ, thực
hành theo Kinh Kim Cang thì sẽ được KIẾN TÁNH.
Phải biết cái công đức của Kinh này vô lượng
vô biên, trong Kinh rõ ràng tán
thán, chẳng thể kể xiết. Pháp môn này
là TỐI THƯỢNG THỪA, vì
người đại trí mà thuyết, vì người thượng căn
mà thuyết, kẻ căn khí nhỏ nghe được khó tin. Tại
sao vậy? Ví như trận mưa bão lụt, thành thị
nông thôn đều bị cuốn trôi như cỏ lá, nếu mưa
bão trong biển lớn thì chẳng thêm chẳng bớt; như
người thượng thừa, người tối thượng thừa nghe được Kinh Kim Cang,
tâm liền khai ngộ. Nên biết tự tánh vốn có
cái TRÍ BÁT NHÃ, trí huệ tự
tánh thường chiếu soi nên chẳng nhờ văn tự, ví như
nước mưa, chẳng do trời có mà do khí trời
làm nên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả
cây cối, hữu tình vô tình, đều được thấm
nhuần, tất cả sông ngòi đều chảy về biển lớn, hợp
thành nhất thể. Cái TRÍ TỰ
TÁNH BÁT NHÃ của chúng sanh cũng
vậy. Thiện tri thức, kẻ tiểu căn nghe được PHÁP MÔN
ÐỐN GIÁO này, cũng như cây cỏ mà gặp mưa
bão, đều tự gãy đổ chẳng sanh trưởng được, kẻ tiểu căn
thì cũng như vậy: họ vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ đồng với người
đại trí, chẳng có khác biệt, tại sao nghe
Pháp mà chẳng được tự ngộ? Ðó là do
tà kiến chướng nặng, phiền não căn sâu, cũng như
mây lớn che khuất mặt trời, chẳng được gió thổi nên
chẳng hiện ánh sáng. CÁI TRÍ của BÁT
NHÃ vốn chẳng lớn nhỏ, chỉ vì tất cả chúng sanh tự
tâm mê ngộ chẳng đồng, tâm
mê tu hành hướng ngoại tìm Phật mà chưa ngộ
tự tánh, tức là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn
giáo, chẳng chấp lấy hình tướng
bên ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường khởi
chánh kiến, phiền não trần lao thường chẳng ô
nhiễm, tức là KIẾN TÁNH. Thiện tri thức, trong
ngoài chẳng trụ, đi lại tự do, nếu trừ được chấp tâm
thì thông đạt vô ngại. Nếu tu được hạnh này,
với Kinh BÁT NHÃ vốn chẳng sai biệt. Thiện tri thức, tất
cả Kinh điển và văn tự, đại tiểu nhị thừa, mười hai bộ Kinh đều
do người đặt ra, vì có tánh trí huệ mới
được kiến lập; nếu chẳng có con người thì vạn pháp
vốn chẳng tự có. Nên biết vạn pháp vốn do tâm
người kiến tạo, tất cả Kinh sách là vì con người
mà nói. Vì trong con người có kẻ ngu người
trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại nhơn,kẻ
ngu hỏi pháp với người trí, người trí thuyết
pháp cho kẻ ngu, kẻ ngu đốn ngộ tự tâm thì chẳng
khác với người trí vậy.
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh,
lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật.
Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm, vậy sao chẳng ở
trong tự tâm đốn thấy chơn như bản tánh? Kinh Phạm
Võng nói: Tự tánh vốn thanh
tịnh, nếu nhận được tự tâm, thấy được bản tánh, tức
thành Phật đạo. Kinh Duy Ma Cật nói: Ngay
lúc đó hoát nhiên đốn ngộ, liền được bổn
tâm. Thiện tri thức, ta ở nơi Hoà Thượng Hoằng Nhẫn vừa
nghe câu nói liền ngộ, đốn thấy chơn như bản tánh,
cho nên hoằng dương giáo pháp này, khiến
hành giả đốn ngộ Bồ Ðề, mọi người tự thấy bổn tâm, tự
kiến bản tánh, nếu chẳng tự ngộ, phải tìm người đã
khai ngộ pháp tối thượng thừa, chỉ ngay đường lối CHÁNH
PHÁP, vì thiện tri thức có nhân duyên
lớn giáo hoá dẫn dắt, khiến hành giả được KIẾN
TÁNH, tất cả thiện pháp đều do thiện tri thức mà
được kiến lập. Tam thế chư Phật, mười hai bộ Kinh ở trong tự
tánh vốn đã đầy đủ, vì tự ngộ chẳng được,
nên phải nhờ thiện tri thức chỉ ra mới thấy, kẻ tự ngộ thì
chẳng phải nhờ đến người khác. Nếu cố
chấp rằng phải luôn luôn ỷ lại thiện tri thức mới mong được
giải thoát thì không bao giờ được. Tại sao
vậy? Vì ở trong tự tâm sẵn có tri thức tự ngộ, nếu
khởi tà kiến mê chấp vọng tưởng điên đảo, dẫu cho
gặp thiện tri thức dạy bảo cũng chẳng cứu được. Nếu khởi chơn
chánh BÁT NHÃ tham cứu, trong một sát na
vọng tưởng đều tiêu, nhận được tự tánh, đốn siêu
Phật địa. Thiện tri thức, dùng trí huệ chiếu soi, trong
ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được
bổn tâm. Nếu nhận được bổn tâm tức vốn là giải
thoát, được giải thoát tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, BÁT NHÃ
TAM MUỘI tức là VÔ NIỆM.
Sao gọi
là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp tâm
không nhiễm trước gọi là VÔ
NIỆM, dùng thì khắp nơi, cũng chẳng dính
mắc ở khắp nơi, hễ sạch được bổn tâm, khiến lục thức ra cửa lục
căn, đối với lục trần mà chẳng nhiễm chẳng trước, đi lại tự do,
ứng dụng vô ngại tức là BÁT
NHÃ TAM MUỘI, tự tại giải thoát, gọi là hạnh
VÔ NIỆM. Chứ chẳng phải như người lầm tưởng cho là
ẹtrăm điều chẳng nghĩ, chỉ cho niệm tuyệtế, ấy là pháp
trói buộc, tức là biên kiến. Thiện tri thức, kẻ ngộ
pháp VÔ NIỆM thông
đạt vạn pháp, ngộ pháp VÔ
NIỆM thấy được cảnh giới chư Phật, ngộ pháp VÔ NIỆM được đến địa vị Phật. Thiện tri
thức, nếu người đời sau ngộ được pháp này, đem
pháp môn đốn giáo này với những người đồng
một chánh kiến chánh hạnh phát nguyện cùng
tu, như cúng dường Phật mà suốt đời chẳng thối lui, người
ấy nhất định được vào Thánh vị.
Nhưng phải
truyền thọ, từ trước đến nay các Tổ đều mặc truyền tâm ấn,
chẳng được ẩn giấu Chánh Pháp. Nếu chẳng phải đồng một
chánh kiến, chánh hạnh, là người đã ở trong
pháp khác thì chẳng được truyền thọ, vì sợ
kẻ ngu chẳng hiểu, lại sanh phỉ báng pháp môn
này, phá hoại truyền thống CHÁNH PHÁP của
Cổ Ðức, làm cho muôn ngàn kiếp sau đoạn dứt
Phật chủng, cuối cùng vô ích.
Thiện tri thức,
nay ta có một bài VÔ TƯỚNG
TỤNG, mọi người hãy tự giữ lấy, không kể xuất gia,
tại gia, nên y theo bài tụng mà tu hành, nếu
chẳng tự tu mà chỉ ghi nhớ lời ta cũng chẳng ích lợi
gì. Bài tụng rằng:
- Thuyết thông cập
tâm thông,
- Như nhựt xử hư
không,
- Duy truyền kiến
tánh pháp,
- Xuất thế phá
tà tông.
- Pháp tức
vô đốn tiệm,
- Mê ngộ hữu
trì tật,
- Chỉ thử kiến
tánh môn,
- Ngu nhơn bất khả tất.
- Thuyết tức tuy vạn ban,
- Hợp lý hườn quy
nhất.
- Phiền não
ám trạch trung,
- Thường tu sanh huệ
nhựt,
- Tà lai phiền
não chí.
- Chánh lai phiền
não trừ,
- Tà chánh
câu bất dụng,
- Thanh tịnh chí
vô dư.
- Bồ đề bổn tự
tánh,
- Khởi tâm tức thị
vọng,
- Tịnh tâm tại
vọng trung,
- Ðản chánh
vô tam chướng,
- Thế nhơn nhược tu đạo,
- Nhất thiết tận bất
phương.
- Thường kiến tự kỷ
quá,
- Dữ đạo tất tương đương.
- Sắc loại tự hữu đạo,
- Các bất tương
phương não,
- Ly đạo biệt
mích đạo,
- Chung thân bất
kiến đạo.
- Ba ba độ nhất sanh,
- Ðáo đầu
hườn tự áo.
- Dục đắc kiến chơn đạo,
- Hạnh chánh tức
thị đạo.
- Tự nhược vô đạo
tâm,
- Ám hành
bất kiến đạo.
- Nhược chơn tu đạo nhơn,
- Bất kiến thế gian
quá,
- Nhược kiến tha nhơn
phi,
- Tự phi khước thị tả,
- Tha phi ngã bất
phi,
- Ngã phi tự hữu
quá,
- Ðản tự khước phi
tâm,
- Ðả trừ phiền
não phá.
- Tắng ái bất
quan tâm,
- Trường thân
lưỡng cước ngọa.
- Dục nghĩ hoá
tha nhơn,
- Tự tu hữu phương tiện.
- Vật linh bỉ hữu nghi,
- Tức thị tự tánh
hiện.
- Phật pháp tại
thế gian,
- Bất ly thế gian
giác,
- Ly thế mích bồ
đề,
- Cáp như cầu thố
giác.
- Chánh kiến danh
xuất thế,
- Tà kiến danh
thế gian,
- Tà chánh
tận đả khước,
- Bồ đề tánh uyển
nhiên.
- Thử tụng thị đốn
giáo,
- Diệc danh đại
pháp thuyền,
- Mê văn kinh lũy
kiếp.
- Ngộ tắc sát na
gian.
- Dịch nghiã:
- Thuyết
thông lại tâm thông (1),
- Như mặt trời giữa
không,
- Chỉ truyền pháp
kiến tánh,
- Hoằng pháp
phá tà tông.
- Pháp vốn chẳng
đốn tiệm,
- Mê ngộ có
nhanh chậm,
- Pháp môn
kiến tánh này,
- Kẻ ngu chẳng thể tri.
- Thuyết tuy muôn
ngàn lối,
- Ðúng
lý chỉ là một,
- Nhà phiền
não đen tối,
- Thường nên sanh
huệ nhựt,
- Tà khởi phiền
não tới,
- Chánh đến phiền
não trừ,
- Tà chánh
đều chẳng chấp,
- Thanh tịnh đến
cùng tột.
- Tự tánh vốn bồ
đề,
- Khởi tâm tức
là vọng,
- Tịnh tâm ở trong
vọng,
- Niệm chánh
chẳng tam chướng,
- Người đời muốn tu đạo,
- Tất cả đều chẳng ngại,
- Thường tự thấy lỗi
mình,
- Với đạo tức tương ưng.
- Muôn loài
tự có đạo,
- Mỗi mỗi chẳng ngại nhau,
- Ngoài tâm
đi tìm đạo,
- Suốt đời chẳng thấy
đạo.
- Bôn ba qua một
đời,
- Sau cùng tự
áo não.
- Muốn được thấy chơn
đạo,
- Hạnh chánh tức
là đạo,
- Nếu tự chẳng đạo
tâm,
- Ðen tối chẳng thấy
đạo.
- Nếu là người
chơn tu,
- Chẳng thấy lỗi thế gian,
- Nếu thấy lỗi của người,
- Trái lại
thành tự quấy.
- Người quấy ta chẳng
quấy,
- Thấy quấy thành
tự lỗi.
- Hễ bỏ tâm chấp
quấy,
- Phiền não tự
tan rã.
- Thương ghét
chẳng quan tâm,
- Duỗi thẳng hai
chân nằm.
- Muốn hoá
độ chúng sanh, (2)
- Tự phải có
phương tiện,
- Khiến họ hết nghi ngờ,
- Tức là tự
tánh hiện.
- Phật pháp tại
thế gian,
- Chẳng rời thế gian
giác,
- Lià thế
tìm bồ đề,
- Cũng như tìm
sừng thỏ.
- Chánh kiến gọi
xuất thế,
- Tà kiến gọi thế
gian,
- Tà chánh
đều quét sạch,
- Tánh bồ đề
rõ ràng.
- Tụng này
là đốn giáo,
- Cũng gọi đại
pháp thuyền.
- Lúc mê tu
nhiều kiếp,
- Ngộ chỉ một sát
na.
Sư lại nói: Nay ta ở chùa
Ðại Phạn thuyết pháp đốn giáo này, nguyện cho
pháp giới chúng sanh nghe được pháp này
liền kiến tánh thành Phật.ế Lúc ấy Vi Sử
Quân và tất cả quan chức, đạo tục, nghe sư thuyết
pháp đều được tỉnh ngộ, đảnh lễ tán thán rằng:
Lành thay, đâu ngờ xứ Lãnh Nam lại có Phật
ra đời.
GHI CHÚ:
(1) Thuyết thông lại
tâm thông, Như mặt trời giữa không. Thuyết thông chưa chắc là tâm
thông, tâm thông tự nhiên thuyết cũng
thông. Vậy thế nào là tâm thông?
Trên phù hợp ý Phật, dưới khế hợp đương cơ mới được
gọi là tâm thông, khi tâm đã
thông rồi mới có thể giống như mặt trời giữa hư
không. Mặt trời giữa không chẳng có nhờ cậy
dính mắc gì cả, nên chiếu soi khắp nơi chẳng thiếu
sót. Nếu mặt trời có nhờ cậy bằng một sợi chỉ buộc treo
lên, thì sợi chỉ ấy sẽ che khuất mặt trời, làm cho
sự chiếu soi của mặt trời có chỗ thiếu sót vậy. Như
Giáp Sơn Hoà Thượng ra hoằng pháp, Tăng hỏi: Thế
nào là Pháp thân? Giáp Sơn
đáp: Pháp thân chẳng tướng. Hỏi: Thế nào
là Pháp Nhãn? Ðáp: Pháp
Nhãn chẳng bệnh. Khi đó có Ðạo Ngô Thiền
Sư nghe xong liền cười, Giáp Sơn xuống toà hỏi Ðạo
Ngô rằng: Giáp Sơn vừa trả lời Tăng này, chắc
có chỗ không đúng khiến Thượng Tọa bật cười, xin
Thượng Tọa từ bi chỉ dạy cho. Ðạo Ngô nói: Hoà
Thượng ra hoằng pháp chưa có Thầy. Giáp Sơn
nói: Nay xin lễ Thượng Tọa làm Thầy. Ðạo Ngô
nói: Thầy của Hoà Thượng là Huê
Ðình Thuyền Tử. Giáp Sơn đến Huê
Ðình gặp Thuyền Tử được khai ngộ, trở về nơi cũ hoằng
pháp. Ðạo Ngô lại sai một vị Tăng đến hỏi: Thế
nào là Pháp Thân? Giáp Sơn vẫn
đáp rằng: Pháp Thân chẳng tướng. Hỏi: Thế
nào là Pháp Nhãn? Ðáp:
Pháp Nhãn chẳng bệnh. Tăng lập lại với Ðạo Ngô.
Ðạo Ngô nói: Ông ấy nay đã triệt ngộ. Lời
Giáp Sơn đáp Tăng trước, Ðạo Ngô chê cười
cho là thuyết thông tâm chẳng thông; lời
đáp Tăng sau cũng giống như lời đáp trước mà
Ðạo Ngô lại tán thán, cho là tâm
thông thuyết thông. Chỗ này chớ nên
dùng ý thức để phân biệt; nếu dùng ý
thức tìm hiểu thì chỉ có thể thuyết thông,
chẳng thể tâm thông. Muốn tâm thông cần phải
tham ngộ mới được.
(2)Muốn hoá độ
chúng sanh, Tự phải có phương
tiện, Khiến họ hết nghi ngờ, Tức là
tự tánh hiện. Hai chữ phương tiện
này chẳng phải giống như những người lạm dụng để cầu thêm
danh lợi, hoặc che giấu tội lỗi; cũng chẳng phải dùng để độ
người sơ cơ. Phương tiện ở đây là xuất phát từ
Bát Nhã, phải người kiến tánh mới có Phương
tiện này, mà dùng để khiến cho đương cơ từ NGHI đến NGỘ. Từ NGHI đến NGỘ: tùy
theo người, từ một sát na cho đến năm, mười năm không
chừng, cũng như: Ngài Huệ Minh vừa nghe, ngộ liền, Ngài
Giáp Sơn, trong vài phút được ngộ, Ngài
Pháp Nhãn, một tháng được ngộ, Tổ Hoài
Nhượng, tám năm mới ngộ. Không phải mau ngộ là cao,
chậm ngộ là thấp. Người chứng ngộ mới đoạn dứt được NGHI CĂN (Nguồn gốc nghi
ngờ đối với vạn pháp.)Ðoạn dứt
NGHI CĂN tức là KIẾN TÁNH.
Nên nói: Tức là tự tánh hiện (kiến
tánh).
Một hôm,
Vi Sử Quân vì Sư thiết hội Trai Tăng. Trai xong Sử
Quân mời Sư thăng toà, cùng với quan chức,
dân chúng cung kính lễ bái, hỏi Sư : Ðệ tử nghe Hòa Thượng thuyết pháp,
thật là bất khả tư nghì, nay có một ít nghi
vấn, xin Hòa Thượng từ bi giải thuyết cho.
Sư nói : "Có nghi cứ hỏi,
ta giải đáp cho Sử Quân nói : Cái
Pháp mà Hòa Thượng giảng dạy, có phải
là tông chỉ của Tổ Ðạt Ma chăng ? Sư đáp : Phải. Sử
Quân nói : Ðệ tử nghe nói : Tổ Ðạt
Ma lúc mới gặp Lương Võ Ðế, vua hỏi : Trẫm suốt đời
xây chùa độ Tăng, trai Tăng bố thí, được công
đức gì ? Tổ Ðạt Ma đáp : Thật chẳng công đức.
Ðệ tử chưa hiểu lý này, xin Hòa Thượng chỉ dạy.
Sư nói : Thật chẳng công
đức. Chớ nghi lời của bậc Thánh xưa. Võ Ðế tâm
tà, chẳng biết Chánh Pháp. Xây chùa
độ Tăng, trai Tăng bố thí, ấy là cầu phước, chẳng thể đem
cái phước ấy cho là công đức. Công đức ở
trong Pháp Thân, chẳng ở tại tu phước. Sư lại nói : Kiến tánh là
công, bình đẳng là đức, niệm niệm vô ngại,
thường thấy cái diệu dụng chân thật của tự tánh gọi
là công đức. Trong tâm khiêm tốn là
công, ngoài hành lễ phép là đức; tự
tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm
thể lià niệm là đức; chẳng rời tự tánh là
công, ứng dụng vô nhiễm là đức. Muốn tìm kiếm
Pháp Thân của công đức, phải y theo đây thực
hành mới là chơn công đức. Người tu hạnh công
đức, tâm chẳng khinh người, thường hành pháp cung
kính. Tâm nếu khinh người, nhơn ngã chẳng dứt tức
là chẳng công, tự mình hư vọng chẳng thật tức
là chẳng đức, vì ngã chấp quá lớn,
nên thường khinh bỉ tất cả. Thiện tri thức, niệm niệm chẳng
gián đoạn là công, tâm bình đẳng, hạnh
ngay thẳng là đức; tự tu tánh là công, tự tu
thân là đức. Thiện tri thức, công
đức phải do tự tánh tự thấy, chẳng phải bố thí
cúng dường mà cầu được, nên phước đức và
công đức khác nhau là vậy. Võ Ðế
tự chẳng biết chân lý, đâu phải lỗi của Tổ Sư ! Sử Quân lại hỏi : Ðệ tử thường thấy
Tăng tục niệm Phật A Di Ðà, nguyện sanh Tây Phương,
được vãng sanh chăng ? Xin Hoà Thượng chỉ thị để
phá nghiế. Sư nói : Sử Quân
hãy nghe đây : Lúc Thế Tôn ở trong
thành Xá Vệ thuyết Kinh Dẫn Hoá Tây Phương,
rõ ràng từ đây đến đó chẳng xa. Nếu
nói theo tướng thuyết, tính theo số dặm thì
có mười vạn tám ngàn, tức thập ác
tám tà nơi thân; đó là nói xa.
Nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là
vì người thượng trí, người có hai loại,
pháp chẳng hai thứ, do mê ngộ có khác
nên thấy có nhanh chậm. Kẻ mê niệm Phật cầu sanh nơi
khác, người ngộ tự tin nơi tâm. Cho nên Phật
nói : Tùy nơi tâm tịnh (trong
sạch) tức Phật độ tịnh. Sử Quân là người
Ðông Phương, hễ tâm tịnh thì chẳng tạo tội,
người Tây Phương tâm nếu chẳng tịnh cũng có lỗi.
Người Ðông Phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, người Tây Phương tạo tội cầu sanh phương nào ? Kẻ
mê chẳng rõ tự tánh, chẳng biết tịnh độ trong
thân, cầu nguyện nơi Ðông nơi Tây, người ngộ
thì ở đâu cũng vậy. Cho nên Phật nói : Ở bất
cứ nơi nào cũng đều an lạc vậy. Sử Quân nếu chẳng khởi ác niệm thì Tây Phương
cách đây chẳng xa, nếu tâm thường khởi ác
thì dẫu cho niệm Phật cũng khó mà vãng sanh.
Nay khuyên thiện tri thức,
trước nhất phải trừ thập ác, tức đã đi được mười vạn dặm,
sau dứt tám tà, tức đã qua tám ngàn
dặm vậy. Niệm niệm thấy tánh, thực hành bình đẳng
và ngay thẳng, đến Tây Phương như búng ngón
tay, liền thấy Di Ðà. Sử Quân chỉ cần tu thập
thiện, đâu còn phải nguyện vãng sanh ! Nếu chẳng
dứt thập ác tâm, Phật nào mà đến rước ? Nếu
ngộ được pháp vốn VÔ SANH,
thấy Tây Phương chỉ trong chốc lát, chẳng ngộ tự tâm
mà niệm Phật thì con đường vãng sanh xa xôi,
làm sao đến được ! Nay Huệ Năng dời Tây Phương đến với
các ngươi, chỉ cần trong sát na liền thấy trước mắt,
các ngươi có muốn thấy chăng ? Ðại chúng đảnh
lễ rằng : Nếu được thấy tại nơi đây, đâu cần cầu nguyện
vãng sanh nữa, xin Hoà Thượng từ bi hiện cõi
Tây Phương cho cả thảy đều thấy.
Sư nói : Ðại chúng,
cơ thể của các ngươi là thành, nhãn nhĩ tỷ
thiệt thân là cửa, ngoài có năm cửa, trong
có cửa ý (ý căn),
tâm là địa, tánh là vua. Vua ngụ nơi
tâm địa, tánh còn tức vua còn, tánh
đi vua chẳng còn, tánh còn thân tâm
còn, tánh đi thân tâm hoại. Tìm Phật ở nơi tâm, chớ nên cầu
bên ngoài. Tự tâm mê tức chúng sanh, tự
tâm giác ngộ tức Phật, từ bi tức Quán
Âm, hỉ xả tức Thế Chí, thanh tịnh tức Thích Ca,
bình đẳng ngay thẳng tức Di Ðà, nhơn ngã
là núi Tu Di, tà tâm là nước biển,
phiền não là làn sóng, độc hại là
rồng ác, hư vọng là quỷ thần, trần lao là
cá trạch, tham sân là địa ngục, ngu si là
súc sanh. Thiện tri thức, thường hành thập thiện,
thiên đàng liền đến, trừ được nhơn ngã, núi
Tu Di sụp, phá được tà tâm thì nước biển
cạn, chẳng sanh phiền não thì làn sóng lặn,
quên bỏ độc hại thì cá rồng tuyệt. Tự tánh
Như Lai trong tâm địa phóng đại quang minh, ngoài
chiếu sáu cửa thanh tịnh, phá hết lục dục chư
thiên, tự tánh chiếu soi, bên trong liền trừ tam
độc, các tội địa ngục nhất thời tan rã, trong
ngoài sáng tỏ, chẳng khác Tây Phương, nếu
chẳng tu như vậy, Tây Phương làm sao đến được ?
Ðại
chúng nghe nói, đều tự tin sẽ được kiến tánh, thảy
đều lễ bái tán thán rằng : Lành thay,
nguyện khắp pháp giới chúng sanh, nghe được pháp
này sẽ được từ NGHI đến NGỘ.
Sư nói : Thiện tri thức, nếu
muốn tu hành, tại gia cũng được, chẳng do tại chùa. Tại
gia tu được như người Ðông Phương mà tâm thiện,
tại chùa chẳng tu như kẻ Tây Phương mà tâm
ác, chỉ cần tâm được thanh tịnh, tức là tự
tánh Tây Phương. Sử Quân lại
hỏi : Tại gia phải tu như thế nào ? Xin Hòa Thượng
chỉ dạy. Sư nói : Nay ta
vì các ngươi nói bài VÔ
TƯỚNG TỤNG, chỉ cần y theo đây mà tu, như thường ở
với ta chẳng khác, nếu chẳng chịu tu, dẫu cho xuống tóc
xuất gia, cũng đâu có ích lợi gì ?
Bài tụng rằng :
- Tâm bình
hà lao trì giới,
- Hạnh trực hà
dụng tu thiền.
- Ân tắc
thân dưỡng phụ mẫu,
- Nghiã tắc
thượng hạ tương lân.
- Nhượng tắc tôn
ty hòa mục,
- Nhẫn tắc chúng
ác vô tuyên.
- Nhược năng toản mộc
thủ hỏa,
- Ứ nê định sinh
hồng liên.
- Khổ khẩu tức thị lương
dược,
- Nghịch nhĩ tất thị
trung ngôn.
- Cải qúa tất
sanh trí huệ,
- Hộ đoản tâm nội
phi hiền.
- Nhựt dụng thường
hành nhiêu ích,
- Thành đạo phi
do thí tiền.
- Bồ đề chỉ hướng
tâm mích,
- Hà lao hướng
ngoại cầu huyền.
- Thính thuyết y
thử tu hành,
- Thiên
đàng chỉ tại mục tiền.
- Dịch nghiã :
- Tâm
bình đẳng (bất nhị) chẳng nhọc trì giới
- (tâm địa chẳng
quấy tự tánh giới).
- Hạnh ngay thẳng (bất nhị)
đâu cần tu thiền.
- (Hạnh ngay thẳng là công phu bảo
nhậm, ngộ rồi chỉ cần bảo nhậm, khỏi phải tu thiền ).
- Báo ân
là nuôi dưỡng cha mẹ,
- Nhân
nghiã thì già trẻ thương nhau.
- Khiêm nhường
thì sang hèn hoà thuận,
- Nhẫn nhục thì
việc ác chẳng sanh.
- Nếu công phu
miên mật mãi mãi,
- Kẻ ngu độn cũng phải
kiến tánh.
- Thuốc đắng hay trừ
được bệnh khổ,
- Lời trái tai ắt
là trung ngôn.
- Tự sửa quấy sẽ sanh
trí huệ,
- Giấu lỗi thì
trong tâm chẳng lành.
- Hằng ngày
thường lợi ích chúng sanh,
- Thành đạo chẳng
do bố thí tiền.
- Bồ đề chỉ ở nơi
tâm ngộ.
- Ðâu
cần hướng ngoại để cầu huyền.
- Nghe xong
hãy theo đây mà tu hành,
- Tịnh độ
đã ở ngay trước mắt.
Sư lại nói : Thiện tri thức, cần phải y
theo kệ này tu hành, nhận thấy tự tánh, thẳng đến
Phật địa. Pháp chẳng đợi người, các ngươi hãy đi,
ta về Tào Khê, hễ có thắc mắc thì đến hỏi.
Lúc ấy Sử Quân và trong hội các quan chức,
thiện nam tín nữ đều được tỉnh ngộ, tín thọ phụng
hành.
Sư dạy chúng rằng: Thiện tri
thức, pháp môn này lấy ÐỊNH
Huệ làm gốc. Các ngươi chớ lầm rằng ÐỊNH với Huệ
có khác; ÐỊNH Huệ vốn nhất thể, chẳng phải là hai.
Ðịnh là thể của Huệ, Huệ là dụng của Ðịnh, ngay
trong lúc huệ có định, ngay trong lúc định
có huệ, thấu được nghiã này tức là định huệ
đồng nhau. Các ngươi học đạo chớ cho là trước phát
định sau phát huệ, hay trước huệ sau định có khác,
kiến giải như vậy thành ra pháp có nhị tướng.
Miệng tuy nói lành mà trong tâm chẳng
lành, tuy có định huệ mà định huệ chẳng đồng nhau.
Nếu tâm miệng đều lành, trong ngoài nhất thể, tức
là định huệ đồng nhau. Tự ngộ tu
hành, chẳng nên tranh biện, nếu tranh giành trước
sau thì đồng với kẻ mê, chẳng dứt hơn thua, lại thêm
ngã chấp, chẳng lià được tứ tướng (nhơn, ngã, chúng sanh, thọ giả).
Thiện tri thức, ÐỊNH Huệ
ví như cái gì? Như đèn và ánh
sáng: có đèn thì sáng, không
đèn thì tối; đèn là thể của sáng,
sáng là dụng của đèn, tên tuy có hai,
thể vốn là một, pháp ÐỊNH Huệ
cũng vậy. Sư dạy chúng rằng: Thiện
tri thức, nói nhất hạnh tam muội, là ở tất cả mọi nơi đi
đứng nằm ngồi thường hành trực tâm. Kinh Duy Ma Cật
nói: Trực tâm là đạo
tràng, trực tâm là tịnh độ. Chớ nên tâm
hạnh quanh co, miệng thì nói trực, nói nhất hạnh
tam muội mà chẳng hành trực tâm. Người hành
trực tâm, đối với tất cả pháp chẳng nên chấp trước.
Kẻ mê chấp pháp tướng, chấp nhất hạnh tam muội, cứ
nói ngồi yên chẳng động, vọng chẳng khởi nơi tâm tức
là nhất hạnh tam muội; kiến giải như vậy đồng với vô
tình, đó là nhân duyên chướng đạo.
Sư dạy chúng rằng: Thiện tri
thức, đạo cần phải linh động, chớ nên làm cho ngăn trệ.
Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được linh động,
tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói. Nếu
nói ngồi yên chẳng động là đúng, chỉ như
Xá Lợi Phất tĩnh tọa trong rừng lại bị Duy Ma Cật quở. Thiện tri
thức, lại có kẻ dạy người lấy ngồi làm công phu,
khán tâm quán tịnh, chẳng khởi chẳng động, kẻ
mê chẳng hiểu, bèn chấp ngồi thành bệnh, nhiều
người truyền dạy nhau như vậy, thật là lầm lỗi lớn!
Sư dạy chúng rằng: Thiện tri
thức, CHÁNH GIÁO vốn chẳng
đốn tiệm, tánh người tự có lợi độn, kẻ mê tiệm tu,
người ngộ đốn khế. Ðốn tiệm chỉ là giả danh kiến lập
mà thôi, nếu tự nhận được bổn tâm, tự thấy được bổn
tánh thì chẳng sai biệt vậy. Thiện tri thức, pháp
môn này xưa nay lập VÔ Niệm
làm tông, VÔ TƯỚNG
làm thể, VÔ Trụ làm gốc.VÔ
TƯỚNG là ở nơi tướng mà lià tướng.VÔ Niệm là
ở nơi niệm mà chẳng niệm. VÔ
Trụ là bản tánh của con người đối với tất cả sự vật,
thiện ác, tốt xấu, kẻ thù, người thân trên
thế gian, cho đến lúc bị người nói xấu, khi dễ, đều cho
là không, chẳng nghĩ trả thù, niệm niệm chẳng nghĩ
ngoại cảnh. Nếu niệm trước, niệm sau và đang niệm, niệm
niệm theo cảnh chẳng dứt, gọi là trói buộc, đối với tất
cả pháp niệm niệm chẳng trụ tức là chẳng trói buộc
vậy, đây là lấy VÔ Trụ làm gốc.
Thiện tri thức,
ngoài lià tất cả tướng gọi là VÔ TƯỚNG, lià tướng thì
pháp thể thanh tịnh, đây là lấy VÔ TƯỚNG làm thể. Thiện tri thức,
đối với mọi cảnh tâm chẳng nhiễm, trong niệm thường tự lià
mọi cảnh, chẳng ở trên cảnh sanh tâm gọi là VÔ Niệm Nếu là trăm điều chẳng
nghĩ, làm cho niệm tuyệt, một niệm tuyệt liền chết, thọ sanh nơi
khác, ấy là cái lỗi lầm lớn, người học đạo
nên xét kỹ! Nếu chẳng hiểu ý Chánh
Pháp, tự lầm còn đỡ, lại khuyên người khác
học theo, tự mê chẳng thấy, lại thêm tội phỉ báng
Kinh Phật, vì vậy nên lập VÔ Niệm
làm tông.
Thiện tri
thức, tại sao lập VÔ Niệm
làm tông? Chỉ vì kẻ mê miệng nói kiến
tánh mà khởi niệm trên cảnh, nơi niệm liền lọt
vào tà kiến, tất cả trần lao vọng tưởng theo đó
mà sanh. Tự tánh vốn chẳng một pháp có thể
đắc, nếu có sở đắc, vọng nói tội phước, tức là
trần lao tà kiến, nên pháp môn này lập
VÔ Niệm làm
tông.
Thiện tri thức,
VÔ là Vô việc gì? Niệm là Niệm vật
gì? VÔ là VÔ NHỊ TƯỚNG (Pháp
đối đãi), VÔ tất cả
tâm trần lao. Niệm là Niệm CHƠN NHƯ BẢN TÁNH. CHƠN
NHƯ là thể của Niệm , Niệm là dụng của CHƠN NHƯ. Chơn như
tự tánh khởi niệm, chẳng do nhãn nhĩ tỷ thiệt năng niệm,
chơn như có tánh cho nên khởi niệm, nếu chơn như
không tánh thì nhãn nhĩ sắc thanh ngay
đó liền hoại. Thiện tri thức, chơn như tự tánh khởi niệm,
lục căn dù có kiến văn giác tri mà chẳng
nhiễm muôn cảnh, chơn tánh thường tự tại. Nên Kinh
nói: Khéo phân biệt được các pháp
tướng mà nơi đệ nhất nghiã thường chẳng động là
vậy.
Sư dạy chúng rằng: Pháp
môn này nói TỌA THIỀN
vốn chẳng chấp tâm, cũng chẳng chấp tịnh, cũng chẳng phải
là chẳng động. Nếu nói chấp tâm, tâm vốn
là vọng, biết tâm như huyễn cho nên chẳng chấp. Nếu
nói chấp tịnh, tự tánh vốn tịnh, chỉ do vọng niệm che
khuất chơn như, nếu chẳng có vọng niệm, tánh tự thanh
tịnh; khởi tâm chấp tịnh, lại sanh vọng tịnh. Vọng chẳng xứ sở,
kẻ chấp là vọng, tịnh chẳng hình tướng, lại lập tướng
tịnh cho là công phu; kiến giải như vậy chướng tự bản
tánh, lại bị tịnh trói.
Thiện tri
thức, nếu người tu theo pháp chẳng động, khi thấy mọi người
mà chẳng thấy tất cả thị phi, thiện ác, lỗi lầm của
người, tức là tự tánh chẳng động. Thiện tri thức, kẻ
mê thân dù chẳng động, mở miệng thì
nói thị phi, tốt xấu, hay dở của người; như vậy là
trái ngược với đạo, nếu chấp tâm tịnh tức là chướng
đạo.
Sư dạy chúng rằng: Thiện
tri thức, sao gọi là TỌA THIỀN? Trong pháp môn
này vô chướng, vô ngại, bên
ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm
chẳng khởi gọi là TỌA, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi
là THIỀN.
Thiện tri thức,
sao gọi là THIỀN
ÐỊNH? Bên ngoài
lià tướng là THIỀN, bên trong chẳng loạn là ÐỊNH.
Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm liền loạn, ngoài
nếu lià tướng thì tâm chẳng loạn. Bản tánh
tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh chấp cảnh thành loạn,
nếu người thấy mọi cảnh mà tâm chẳng loạn, đó
là CHƠN
ÐỊNH vậy. Thiện tri
thức, ngoài lià tướng tức THIỀN,
trong chẳng loạn tức ÐỊNH, ngoài THIỀN trong ÐỊNH gọi
là THIỀN ÐỊNH. Kinh Phạm Võng nói: Bản tánh ta vốn tự thanh tịnh. Thiện tri
thức, niệm niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự
hành, tự thành Phật đạo.
Lúc ấy Sư
thấy các quan chức và dân chúng từ Quảng
Châu, Thiều Châu các nơi tấp nập đến chùa
nghe pháp, nên thăng tòa dạy chúng rằng:
Các
thiện tri thức, việc này phải ở trong tự tánh mà
khởi, bất cứ lúc nào niệm niệm, tự tịnh nơi tâm, tự
tu tự hành, tự thấy Pháp Thân, tự thấy tâm
Phật, tự độ tự giới, như vậy mới chẳng uổng công đến đây.
Ðã từ xa đến, gặp nhau nơi đây đều là có
duyên. Nay các ngươi hãy quỳ xuống. Ta vì
các ngươi truyền năm phần HƯƠNG
PHÁP THÂN của tự tánh, kế đó thọ VÔ TƯỚNG SÁM Hối. Ðại
chúng cùng quỳ xuống.
Sư nói: Một là GIỚI HƯƠNG: Tức trong tự tâm chẳng quấy
chẳng ác, chẳng ganh tỵ, chẳng tham sân, chẳng cướp hại
gọi là GIỚI HƯƠNG. Hai là ÐỊNH
HƯƠNG: Thấy những cảnh tướng thiện ác tự tâm chẳng
loạn, gọi là ÐỊNH HƯƠNG. Ba là Huệ HƯƠNG: Tự tâm vô ngại, thường
dùng trí huệ chiếu soi tự tánh, chẳng tạo điều
ác, dù tu nhiều thiện mà tâm chẳng chấp
trước, kính trên mến dưới, thương xót kẻ cô
đơn nghèo nàn, gọi là Huệ HƯƠNG. Bốn là GIẢI THOÁT HƯƠNG: Tự tâm chẳng
phan duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại
vô ngại, gọi là GIẢI THOÁT HƯƠNG. Năm là GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG: Tự tâm
đã chẳng phan duyên thiện ác, chớ nên trầm
không trệ tịch, phải tu học pháp tối thượng thừa, nhận tự
bản tâm, thông đạt lý Phật, hạ mình để tiếp
người, vô nhơn vô ngã, thẳng đến Bồ đề, chơn
tánh chẳng đổi gọi là GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG.
Thiện tri thức,
hương này mỗi người tự huân tập trong tâm, chớ
tìm bên ngoài. Nay vì các ngươi
truyền thọ VÔ TƯỚNG SÁM Hối, diệt tội tam thế, khiến cho tam nghiệp
thanh tịnh. Thiện tri thức, hãy nói theo ta: Ðệ tử chúng con, từ tiền niệm, hiện niệm,
hậu niệm, niệm niệm chẳng bị ngu mê nhiễm. Tất cả các tội
ác nghiệp ngu mê đã có từ trước, thảy đều
sám hối, nguyện nhất thời tan rã, trọn chẳng khởi nữa.
Ðệ tử chúng con, từ tiền niệm, hiện niệm, hậu niệm, niệm
niệm chẳng bị kiêu căng dối trá nhiễm. Tất cả các
tội ác nghiệp kiêu căng dối trá đã có
từ trước thảy đều sám hối, nguyện nhất thời tan rã, trọn
chẳng khởi nữa. Ðệ tử chúng con, từ tiền niệm, hiện niệm,
hậu niệm, niệm niệm chẳng bị ganh tỵ nhiễm. Tất cả các tội
ác nghiệp ganh tỵ đã có từ trước thảy đều
sám hối, nguyện nhất thời tan rã, trọn chẳng khởi nữa.
Thiện tri thức,
trên đây là VÔ TƯỚNG SÁM Hối. Thế nào là SÁM? Thế nào là Hối? Sám là sám trừ tội
trước, từ trước tất cả các tội ác nghiệp ngu mê,
kiêu căng, dối trá, ganh tỵ thảy đều sám hết, chẳng
bao giờ khởi nữa gọi là sám. Hối là hối cải lỗi
sau, tất cả ác nghiệp ngu mê, kiêu căng, dối
trá, ganh tỵ... nay đã giác ngộ, đều cho đoạn dứt,
chẳng bao giờ tạo nữa gọi là hối. Phàm phu ngu mê,
chỉ biết sám trừ tội trước, chẳng biết hối cải lỗi sau,
vì chẳng hối cải, nên tội trước chẳng diệt, tội sau lại
sanh, tội trước đã chẳng diệt, tội sau lại tiếp tục, như thế
làm sao gọi là SÁM Hối
được! Thiện tri thức, đã sám hối xong, nay vì
thiện tri thức phát TỨ HOẰNG thệ nguyện, mọi
người phải dùng chánh tâm để nghe:
- Tự tâm
chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
- Tự tâm phiền
não vô tận thệ nguyện dứt,
- Tự tánh
pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
- Tự tánh Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Thiện tri thức,
chúng ta há chẳng nói CHÚNG
SANH VÔ BIÊN thệ nguyện ÐỘ sao? Nói như thế, nhưng chẳng
phải là Huệ Năng độ đâu. Thiện tri thức, chúng sanh
ở nơi tự tâm, cũng như tâm tà mê, tâm
cuồng vọng, tâm chẳng thiện, tâm ganh tỵ, tâm
ác độc... những thứ tâm kể trên đều là
chúng sanh. Mọi người phải tự tánh tự độ, gọi là CHƠN ÐỘ. Sao gọi là tự tánh
tự độ? Tức là tà kiến, phiền não, ngu si trong
tâm dùng chánh kiến để độ; đã có
chánh kiến, dùng trí Bát Nhã để
phá trừ ngu si mê vọng, tà đến chánh độ,
mê đến ngộ độ, ngu đến trí độ, ác đến thiện độ,
chúng sanh mỗi mỗi tự độ, độ như thế gọi là CHƠN ÐỘ. PHIỀN NÃO VÔ TẬN thệ nguyện DỨT:
Tức là đem trí Bát Nhã của tự tánh,
dứt trừ tất cả tư tưởng hư vọng, gọi là CHƠN
DỨT. PHÁP MÔN VÔ LƯỢNG
thệ nguyện HỌC: Là phải tự thấy tự tánh,
thường hành Chánh Pháp, gọi là CHƠN HỌC. PHẬT ЀO
VÔ THƯỢNG thệ nguyện THÀNH: Ðã quyết tâm
dùng công phu, thường hành nơi chơn chánh,
lià mê lià giác, thường sanh Bát
Nhã, trừ vọng trừ chơn, liền thấy Phật tánh, tức ngay nơi
đó thành Phật đạo, gọi là CHƠN
THÀNH.
Thường nghĩ nhớ
tu hành là PHÁT Nguyện LỰC.
Thiện tri thức, đã phát tứ hoằng thệ nguyện xong, nay
vì thiện tri thức truyền VÔ TƯỚNG
TAM QUY Y GIỚI.
Thiện tri thức, QUY Y GIÁC, lưỡng túc tôn, QUY Y CHÁNH, ly dục tôn, QUY Y TỊNH, chúng trung tôn. Từ
nay trở đi, xưng GIÁC làm
Thầy, trọn chẳng quy y tà ma ngoại đạo, dùng TỰ TÁNH TAM BẢO thường tự chứng minh.
Khuyên các thiện tri thức, nên QUY
Y TỰ TÁNH TAM BẢO: Phật tức
là GIÁC, Pháp tức là CHÁNH, Tăng tức
là TỊNH. Tự tâm quy y GIÁC thì
tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay lià
tài sắc, gọi là LƯỠNG TÚC TÔN. Tự tâm
quy y CHÁNH, niệm niệm chẳng tà kiến, vì chẳng
tà kiến nên chẳng có nhơn ngã, cống cao,
tham ái, chấp trước, gọi là LY Dục TÔN. Tự
tâm quy y TỊNH, tự tánh đối với tất cả cảnh giới trần lao
ái dục đều chẳng nhiễm trước, gọi là CHÚNG TRUNG
TÔN. Nếu tu hạnh này là tự quy y. Phàm phu
chẳng hiểu, từ sáng đến tối thọ tam quy y, nếu nói quy y
Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật thì dựa
vào đâu mà quy y? Nói lại thành vọng.
Thiện tri thức, mọi người hãy xem xét kỹ, chớ lầm dụng
tâm, trong Kinh rõ ràng nói là quy y
tự tánh Phật, chẳng có nói quy y tha Phật. Tự
tánh Phật, chẳng quy y thì đâu còn chỗ
nào để quy y nữa! Nay đã tự ngộ, mỗi mỗi đều phải quy y
TỰ TÁNH TAM BẢO, bên trong tự sửa tâm tánh,
bên ngoài kính mến mọi người, tức là TỰ QUY
Y vậy.
Thiện tri thức,
đã quy y TỰ TÁNH TAM BẢO xong các ngươi chú
tâm, nghe ta nói NHẤT THỂ TAM
THÂN TỰ TÁNH PHẬT, khiến các ngươi đều
rõ ràng thấy tam thân Phật, tự ngộ tự tánh.
Nay nói
theo ta: Nơi tự sắc thân Quy y THANH TỊNH
PHÁP THÂN PHẬT. Nơi tự sắc thân Quy y THIÊN
BÁ ỨC HOÁ THÂN PHẬT. Nơi tự sắc thân Quy y
VIÊN MÃN BÁO THÂN PHẬT. Thiện tri
thức, sắc thân là nhà trọ, chẳng thể nói quy
y được. Xưa nay tam thân Phật ở trong tự tánh mọi người
đều sẵn có, tại tâm mê nên chẳng thấy
tánh bên trong, chỉ hướng ngoại tìm tam thân
Phật mà chẳng thấy tự thân có tam thân Phật.
Các ngươi hãy nghe, nay ta khiến các ngươi ngay
nơi tự thân được thấy tự tánh có tam thân
Phật; tam thân Phật này từ tự tánh sanh ra, chẳng
từ bên ngoài mà được.
Sao gọi
là THANH TỊNH PHÁP THÂN PHẬT?
Người đời tánh vốn thanh tịnh, vạn pháp từ tự tánh
sanh khởi. Suy lường điều ác tức sanh hạnh ác, suy lường
điều thiện tức sanh hạnh lành. Như vậy các pháp ở
trong tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường
sáng; vì bị mây đen che khuất nên trên
sáng dưới tối; thoạt được gió thổi mây tan,
trên dưới đều sáng, vạn tượng đều hiện. Người đời
tánh hay phù du lơ lửng như mây trên trời. Thiện tri thức, trí như mặt trời, huệ như mặt
trăng, trí huệ thường sáng; vì chấp cảnh bên
ngoài, nên bị vọng niệm mây đen che khuất, tự
tánh chẳng được sáng tỏ. Nếu gặp được thiện tri
thức, nghe được Chánh Pháp, tự trừ mê vọng, trong
ngoài đều sáng, vạn pháp đều hiện nơi tự
tánh: người KIẾN TÁNH cũng vậy. Ðây gọi
là THANH TỊNH PHÁP THÂN PHẬT.
Thiện tri thức,
tự tâm quy y tự tánh tức là quy y CHƠN PHẬT. Tự Quy Y tức là trong tự tánh trừ sạch
những tâm bất thiện, tâm ganh tỵ, tâm quanh co,
tâm chấp ngã, tâm cuồng vọng, tâm khinh mạn,
tâm tà kiến, tâm cống cao và tất cả những
hạnh bất thiện. Thường tự thấy lỗi mình, chẳng nói tốt
xấu của người, ấy là TỰ QUY Y. Thường phải hạ
mình, cung kính mọi người, tức là KIẾN
TÁNH, thông đạt chẳng còn trệ ngại, ấy là TỰ
QUY Y.
Sao gọi
là THIÊN BÁ ỨC HOÁ
THÂN? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp, tánh
vốn như hư không. Một niệm suy lường gọi là biến
hoá: Suy lường điều ác tức hoá ra địa ngục, suy
lường việc thiện hoá ra thiên đàng, độc hại
hoá ra rắn rồng, từ bi hoá ra Bồ Tát, trí
huệ hoá ra tam thiện đạo, ngu si hoá ra tam ác
đạo. Tự tánh biến hoá rất nhiều, kẻ mê chẳng thể
tỉnh giác, niệm niệm khởi ác, thường đi trên đường
ác, hễ nhất niệm hồi tâm hướng thiện, trí huệ liền
sanh, đây gọi là TỰ TÁNH HOÁ THÂN PHẬT.
Sao gọi
là VIÊN MÃN BÁO
THÂN? Ví như một ngọn đèn trừ được
ngàn năm đen tối, một niệm trí huệ diệt được muôn
năm ngu mê. Chớ nghĩ việc xưa, đã qua thì bất khả
đắc, thường nghĩ về sau, niệm niệm viên tròn sáng
tỏ, tự thấy bản tánh, thiện ác dù khác,
tánh vốn bất nhị, tánh bất nhị gọi là thật
tánh, ở trong thật tánh chẳng nghĩ thiện ác,
đây gọi là VIÊN MÃN BÁO THÂN
PHẬT.
Tự tánh
khởi một niệm ác, liền diệt vạn kiếp thiện nhân, tự
tánh khởi một niệm thiện, liền dứt hằng sa ác nghiệp,
thẳng đến Vô Thượng Bồ Ðề. Niệm niệm tự thấy chẳng mất bản
niệm gọi là BÁO THÂN PHẬT.
Thiện tri thức, từ Pháp Thân suy lường tức là HOÁ THÂN PHẬT; niệm niệm tự
tánh tự thấy tức là BÁO THÂN PHẬT; tự ngộ tự
tu tự tánh công đức là CHƠN QUY Y. Da thịt
này là sắc thân, sắc thân là
nhà trọ, chẳng thể Quy Y được. Hễ ngộ được tự tánh tam
thân, tức nhận được tự tánh Phật. Nay ta thuyết bài
VÔ TƯỚNG TỤNG, nếu y
theo tụng này tu hành, ngay đó khiến các
ngươi nhiều kiếp ngu mê đều nhất thời tan rã. Tụng rằng:
- Mê nhơn tu phước
bất tu đạo,
- Chỉ ngôn tu
phước tiện thị đạo,
- Bố thí
cúng dường phước vô biên,
- Tâm trung tam
ác nguyên lai tạo,
- Nghĩ tương tu phước
dục diệt tội,
- Hậu thế đắc phước tội
hườn tại.
- Ðản hướng
tâm trung trừ tội duyên;
- Các tự
tánh trung chơn sám hối.
- Hốt ngộ đại thừa chơn
sám hối,
- Trừ tà
hành chánh tức vô tội.
- Học đạo thường ư tự
tánh quán,
- Tức dữ chư Phật đồng
nhất loại.
- Ngô Tổ duy
truyền thử đốn pháp,
- Phổ nguyện kiến
tánh đồng nhất thể.
- Nhược dục tương lai
mích pháp thân,
- Ly chư pháp
tướng tâm trung tẩy.
- Nỗ lực tự kiến mạc du
du,
- Hậu niệm hốt tuyệt
nhất thế hưu.
- Nhược ngộ đại thừa đắc
kiến tánh,
- Kiền cung hiệp chưởng
chí tâm cầu.
- Dịch nghiã:
- Kẻ mê tu phước
chẳng tu đạo,
- Chỉ cho tu phước tức
là đạo.
- Bố thí
cúng dường phước vô biên,
- Trong tâm tam
ác vẫn còn tạo.
- Muốn dùng tu
phước để diệt tội,
- Kiếp sau được phước
tội vẫn còn.
- Nhân duyên
tội ác trừ nơi tâm,
- Hướng vào tự
tánh chơn sám hối.
- Hoát ngộ đại
thừa chơn sám hối,
- Tà dứt hạnh
chánh tức vô tội.
- Học đạo thường
quán nơi tự tánh,
- Thì với chư
Phật đồng một loại.
- Tổ Sư truyền
pháp đốn ngộ này,
- Nguyện cùng
kiến tánh đồng nhất thể.
- Nếu muốn tương lai ngộ
pháp thân,
- Lià các
pháp tướng tâm trong sạch.
- Cố gắng tu hành
chớ nhởn nhơ,
- Hậu niệm thoạt
dứt một đời tiêu,
- Muốn ngộ đại
thừa thấy tự tánh,
- Kính
lễ Tri Thức chí tâm cầu. (Cầu nơi chẳng cầu gọi là chí
tâm cầu.)
Sư bảo: Thiện
tri thức, cần phải theo tụng này tu hành, ngay nơi
đó được KIẾN TÁNH, dù cách xa ta
ngàn dặm mà thuờng như ở bên cạnh ta, nếu ngay nơi
đó chẳng ngộ, dẫu cho đối diện cũng như cách xa
ngàn dặm, uổng công từ xa đến đây. Các ngươi
ra về bình yên. Ðại chúng nghe pháp đều
được tỉnh ngộ, hoan hỷ phụng hành.
Sư đắc
Pháp ở Huỳnh Mai rồi về làng Tào Hầu tỉnh Thiều
Châu, dân chúng chẳng ai biết đến. Lúc ấy
có một nhà nho tên Lưu Chí Lược, đối
đãi với Sư rất cung kính, Chí Lược có người
cô xuất gia làm Ni, pháp danh Vô tận Tạng,
thường tụng Kinh Ðại Niết Bàn. Sư nghe qua một lần liền biết
diệu nghiã của kinh, nên vì Ni giải thuyết. Ni cầm
Kinh hỏi chữ, Sư nói: Hỏi
nghiã thì được, hỏi chữ thì chẳng biết." Ni nói: Chữ còn chưa biết,
làm sao hiểu nghiã? Sư nói:
Diệu lý của chư
Phật chẳng dính dáng với văn tự. Ni ngạc
nhiên kính phục, nói khắp các bậc kỳ
lão trong làng: Ðây là người có
đạo, rất nên cúng dường. Lúc ấy có
cháu chắt của Võ Hầu đời Ngụy tên Tào
Thúc Lương, cùng với dân chúng trong
làng tấp nập đến chiêm ngưỡng kính lễ.
Thời ấy
Bảo Lâm Cổ Tự đã bị hư phế do binh loạn từ cuối đời
nhà Tùy, nay xây dựng lại ngôi chùa
rồi rước Sư về ở. Chẳng bao lâu dân chúng đến
đông, thành nơi trang nghiêm. Sư ở đấy được hơn
chín tháng, lại bị bọn ác tìm đến, Sư trốn
lên núi, bị bọn họ đốt cháy rừng núi, Sư
chen thân ẩn trong kẽ đá được khỏi. Nay trên
đá có dấu ngồi kiết già và dấu vằn y của
Sư; người đời sau gọi đá ấy là đá tỵ nạn. Sư nhớ
lời dặn của Ngũ Tổ là phải ẩn nơi hai ấp Hoài, Hội,
bèn về đấy ở ẩn.
Tăng Pháp
Hải, người ở Khúc Giang tỉnh Thiều Châu, tham vấn Tổ Sư, hỏi: Thế nào là tức tâm tức
Phật? xin Hoà Thượng chỉ dạy. Sư
nói: Niệm trước chẳng sanh tức
tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật; lập tất cả tướng tức
tâm, lià tất cả tướng tức Phật. Nếu ta nói
cho đủ thì trọn kiếp cũng chẳng hết, hãy nghe kệ
đây:
- Tức tâm danh huệ,
- Tức Phật nãi
định.
- Ðịnh huệ đẳng
trì,
- Ý trung thanh
tịnh.
- Ngộ thử pháp
môn,
- Do như tập tánh
- Dụng bổn vô sanh
- Song tu thị
chánh.
- Dịch nghiã:
- Tức tâm
là huệ,
- Tức Phật là
định.
- Ðịnh huệ song song
(đẳng trì),
- Nơi ý thanh
tịnh.
- Ngộ pháp
môn này,
- Do tập khí
ngươi,
- Dụng vốn vô sanh,
- Song tu (định hue)
là chánh.
- Pháp Hải ngay nơi đó
liền đại ngộ, tán thán bằng kệ rằng:
- Tức tâm
nguyên thị Phật,
- Bất ngộ nhi tự khuất.
- Ngã tri định
huệ nhân,
- Song tu ly chư vật.
- Dịch nghiã:
- Tức tâm vốn
là Phật,
- Chẳng ngộ là tự
khuất (oan cho mình),
- Ta biết nhân
định huệ,
- Song tu lià vạn
pháp.
Tăng Pháp
Ðạt, người Hồng Châu, 7 tuổi xuất gia, thường tụng Kinh
Pháp Hoa, đến lễ Tổ Sư mà đầu chẳng chấm đất. Sư quở
rằng: Ðảnh lễ mà chẳng chấm đất bằng như chẳng lễ, trong
tâm ngươi tất có chất chứa một điều gì, ngày
thường tu hạnh gì? Ðáp: Niệm Kinh Pháp Hoa
đã hết ba ngàn bộ. Sư nói: Dẫu cho ngươi tụng đến
mười ngàn bộ, nếu ngộ được ý Kinh mà chẳng tự cho
là thù thắng, mới đồng một hạnh với ta. Nay ngươi tự phụ
cho đấy là sự nghiệp mà chẳng biết lỗi, hãy nghe
kệ đây:
- Lễ bổn chiết mạn tràng,
- Ðầu hề bất chí địa?
- Hữu ngã tội tức sanh,
- Vong công phước vô tỷ.
- Dịch nghiã:
- Lễ vốn trừ ngã
mạn,
- Ðầu sao chẳng chấm
đất?
- Có ngã
tội liền sanh,
- Quên công,
phước vô tận.
- Sư lại hỏi: Ngươi tên gì?
Ðáp: Tên là Pháp Ðạt. Sư nói:
Ngươi tên Pháp Ðạt, đâu từng đạt pháp.
Lại nói kệ rằng:
- Nhữ kim danh
Pháp Ðạt,
- Cần tụng vị hưu hiết,
- Không tụng đản
tuần thanh,
- Minh tâm hiệu Bồ
Tát.
- Nhữ kim hữu
duyên cố,
- Ngô kim vi nhữ
thuyết.
- Ðản tính
Phật vô ngôn,
- Liên hoa
tùng khẩu phát.
- Dịch nghiã:
- Ngươi tên gọi
Pháp Ðạt,
- Siêng tụng chưa
từng dứt,
- Tụng suông chỉ
theo tiếng,
- Minh tâm gọi Bồ
Tát.
- Ngươi nay có
nhân duyên,
- Ta vì ngươi
mà thuyết.
- Hễ tin Phật vô
ngôn.
- (Chớ nên chấp ở
ngôn ngữ. Vô ngôn: Phật thuyết Pháp 49 năm
mà tự nói chẳng thuyết một chữ.)
- Lời Phật từ
miệng phát.(Chớ nên chấp vào
im lặng).
Ðạt nghe kệ
xong bèn tạ lỗi rằng: Từ nay trở đi sẽ khiêm tốn cung
kính tất cả. Ðệ tử tụng Kinh Pháp Hoa mà chưa
hiểu nghiã Kinh, tâm thường có nghi, Hoà
Thượng trí huệ mênh mông, xin nói sơ lược
nghiã lý của Kinh. Sư nói:
Pháp Ðạt, pháp vốn thông đạt, chỉ tại tâm
ngươi chẳng đạt. Kinh vốn chẳng nghi, tâm ngươi tự nghi. Ngươi
niệm Kinh này lấy gì làm tông chỉ? Ðạt nói: Ðệ tử căn tánh
ngu độn, xưa nay chỉ biết y văn niệm tụng, chẳng biết tông chỉ. Sư nói: Ta chẳng biết chữ, ngươi lấy
Kinh tụng thử một bộ, ta sẽ giải thuyết cho. Pháp Ðạt liền
lên tiếng tụng Kinh, đến Phẩm Thí Dụ, Sư nói: Hãy ngừng, Kinh
này vốn lấy nhân duyên xuất thế làm
tông chỉ, dù nói nhiều thí dụ cũng chẳng
ngoài việc này. Thế nào là nhân
duyên? Kinh nói: Chư Phật
Thế Tôn vì một đại sự nhân duyên mà
xuất hiện trên đời. Một đại sự tức là TRI KIẾN PHẬT vậy. Người đời ngoài
mê chấp tướng, trong mê chấp không, nếu được ở nơi
tướng mà lià tướng, nơi không mà lià
không, tức là trong ngoài chẳng mê. Nếu ngộ
pháp này, ngay trong một niệm tâm liền sáng
tỏ, ấy là khai ngộ TRI KIẾN PHẬT vậy.
Phật tức là GIÁC, chia làm bốn cửa: Khai
GIÁC TRI KIẾN, Thị GIÁC TRI KIẾN, Ngộ GIÁC TRI
KIẾN, Nhập GIÁC TRI KIẾN. Nếu nghe khai thị liền được ngộ nhập
tức là GIÁC TRI KIẾN, do đó bổn lai chơn
tánh liền được hiển hiện. Ngươi nên cẩn thận, chớ hiểu lầm
ý Kinh, nghe nói: khai thị ngộ nhập bèn cho
là tri kiến của Phật (tha Phật) chẳng có phần
mình; nếu hiểu như thế là phỉ báng Kinh Phật vậy.
Ðã nói là Phật thì TRI KIẾN PHẬT
đã sẵn đầy đủ, đâu cần phải khai thị nữa! Ngươi phải tin
rằng, nói tri kiến Phật là ở nơi tự tâm của ngươi,
chẳng phải Phật bên ngoài. Bởi vì tất cả
chúng sanh tự che khuất ánh sáng của tự
tánh, tham ái cảnh trần, phan duyên bên
ngoài, nhiễu loạn bên trong, cam chịu trần lao hành
hạ, làm nhọc Ðức Thế Tôn từ chánh định ra, khổ
tâm khuyên dạy bằng đủ mọi cách, khiến ngừng nghỉ
các duyên, chớ nên hướng ngoại tìm cầu, tức
chẳng khác với Phật, nên nói là khai tri
kiến Phật. Ta cũng khuyên tất cả mọi người nên thường khai
tri kiến Phật nơi tự tâm. Người đời tâm tà, ngu
mê tạo tội, miệng lành tâm ác, tham sân
ganh tỵ, gièm siểm, nịnh bợ, ngã mạn, hiếp người, hại
vật, tự khai tri kiến chúng sanh. Nếu được trong tâm ngay
thẳng, thường sanh trí huệ chiếu soi tự tâm, dứt ác
làm lành, tức là tự khai tri kiến Phật vậy. Ngươi
nên niệm niệm khai tri kiến Phật, chớ khai tri kiến chúng
sanh. Khai tri kiến Phật tức là xuất thế, khai tri kiến
chúng sanh tức là thế gian. Nếu ngươi chỉ luôn
luôn lấy công phu tụng niệm làm thời khoá,
chẳng khác nào con mao ngưu tiếc đuôi! (con mao
ngưu có đuôi rất đẹp, gặp thợ săn chỉ giấu đuôi
mà không giấu đầu.) Ðạt
nói: Nếu như vậy tức là chỉ cần hiểu nghiã,
chẳng cần tụng kinh sao? Sư nói:
Kinh có lỗi gì, đâu làm chướng niệm của
ngươi! Chỉ vì mê ngộ tại người, tổn ích do
mình mà thôi. Miệng niệm tâm hành tức
là chuyển được Kinh, miệng niệm tâm chẳng hành tức
bị Kinh chuyển. Hãy nghe kệ đây:
- Tâm mê Pháp Hoa
chuyển,
- Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
- Tụng Kinh cữu bất minh,
- Dữ nghiã tác thù
gia.
- Vô niệm niệm tức chánh,
- Hữu niệm niệm thành tà.
- Hữu vô câu bất kế,
- Trường ngự bạch ngưu xa.
- Dịch nghiã:
- Tâm
mê Pháp Hoa chuyển,
- Tâm ngộ chuyển
Pháp Hoa.
- Tụng lâu chẳng
hiểu thấu,
- Nghịch ý
nghiã trong Kinh.
- Vô niệm
(không chấp thật) niệm tức chánh,
- Hữu niệm (có
chấp thật) niệm thành tà.
- Hữu vô đều chẳng
chấp,
- Tự tánh
luôn luôn hiện.
Ðạt nghe
xong thoạt chảy nước mắt, ngay nơi đó khai ngộ, nói với
Sư: Pháp Ðạt xưa nay thật chưa từng chuyển Pháp Hoa,
lại bị Pháp Hoa chuyển. Lại hỏi: Kinh
nói: Chư Ðại Thanh Văn cho đến Bồ Tát, tất cả
tận tâm suy lường đều chẳng thể đo lường được trí Phật.
Nay khiến phàm phu chỉ ngộ được tự tâm thì gọi
là tri kiến Phật, tự mình đã chẳng phải là
bậc thượng căn, nên chẳng khỏi nghi ngờ. Kinh lại nói ba
loại xe: xe nai, xe dê và xe trâu, có
gì khác biệt? Xin Hoà Thượng chỉ dạy thêm. Sư nói: Ý Kinh rõ
ràng minh bạch, ngươi tự mê trái. Người tam thừa
chẳng thể suy lường được trí Phật, lỗi tại suy lường vậy. Dẫu
cho ngươi tận sức suy lường, chỉ là càng thêm xa
xôi mà thôi. Phật thuyết pháp vốn vì
phàm phu mà thuyết, chẳng vì Phật thuyết;
lý này nếu chẳng chịu tin thì cũng như năm
ngàn người từ trên hội Pháp Hoa lui ra, mà
chẳng biết đã ngồi sẵn trên xe trâu (Phật
tánh vốn sẵn có), mà lại tìm kiếm ba xe
(tam thừa) bên ngoài. Huống trong Kinh rõ
ràng chỉ ra cho người: chỉ duy nhất một Phật thừa, chẳng
còn thừa nào khác, nói có hai thừa
ba thừa, cho đến vô số phương tiện, mọi thứ nhân
duyên, lời nói thí dụ, pháp ấy đều vì
nhất Phật thừa mà tạm lập. Ngươi sao chẳng tỉnh ngộ, nói
ba xe là giả thiết, vì đời xưa mà nói, nhất
thừa là thật, vì đời nay mà nói; chỉ bảo
ngươi bỏ giả trở về thật, trở về thật rồi thật cũng chẳng chấp. Phải
biết tất cả châu báu tài vật đều thuộc về ngươi, do
ngươi thọ dụng, chẳng phải là của cha, cũng chẳng phải là
của con, cũng chẳng khởi dụng tưởng, ấy gọi là trì Kinh
Pháp Hoa, trì Kinh như thế từ kiếp này sang kiếp
khác tay chẳng rời Kinh, từ sáng đến tối, chẳng dứt tụng
niệm vậy.ế Pháp Ðạt được Sư khai thị, mừng rỡ vô
cùng, làm kệ tán thán rằng:
- Kinh tụng tam thiên bộ,
- Tào Khê nhất cú
vong.
- Vị minh xuất thế chỉ,
- Ninh hiết lụy sanh cuồng.
- Dương lộc ngưu quyền thiết,
- Sơ trung hậu thiện dương.
- Thùy tri hoả trạch nội,
- Nguyên thị pháp trung
vương.
- Dịch nghiã:
- Tụng Kinh ba
ngàn bộ,
- Bị Tổ một lời
tiêu.
- Chưa thấu đạo xuất thế,
- Sao dứt lụy kiếp
mê.
- Dê, nai,
trâu giả thiết (dê,
nai, trâu = tiểu, trung, đại thừa).
- Ba đoạn thiện
quét sạch (1).
- Ai ngờ trong
nhà lửa,
- Vốn là tự
tánh Phật.
Sư nói:
Ngươi sau này mới được gọi là ông Tăng tụng Kinh
vậy. Pháp Ðạt từ đó lãnh hội huyền chỉ, cũng
chẳng dứt tụng Kinh.
GHI CHÚ:
(1) Ba đoạn thiện quét sạch: Mới phát thiện tâm là sơ thiện,
chẳng chấp thiện tâm là trung thiện, không trụ nơi
chẳng chấp là hậu thiện, luôn cả cái tri giải biết
về sự không trụ nơi chẳng chấp cũng tiêu là
quét sạch.
Tăng Trí
Thông, người ở An Phong tỉnh Thọ Châu, xem Kinh Lăng
Già hơn ngàn lần mà chẳng hiểu thế nào
là tam thân tứ trí, đến lễ Sư xin giải thuyết cho, Sư nói: Tam thân ấy là:
Thanh Tịnh Pháp Thân, tức là tánh của ngươi;
Viên Mãn Báo Thân là trí của
ngươi; Thiên Bá Ức Hoá Thân là hạnh
của ngươi vậy. Nếu lià bản tánh mà nói tam
thân, ấy gọi là có thân mà vô
trí, nếu ngộ được tam thân vốn chẳng tự tánh, tức
gọi là tứ trí bồ đề. Hãy nghe kệ đây:
- Tự tánh cụ tam thân,
- Phát minh thành tứ
trí.
- Bất ly kiến văn duyên,
- Siêu nhiên đăng Phật địa.
- Ngô kim vi nhữ thuyết.
- Ðế tín vĩnh vô
mê.
- Mạc học trì cầu giả,
- Chung nhựt thuyết bồ đề.
- Dịch nghiã:
- Tự tánh đủ tam
thân
- Khai ngộ thành
tứ trí.
- Chẳng lià sự
thấy nghe,
- Ðốn siêu địa
vị Phật.
- Ta nay vì ngươi
thuyết,
- Tin chắc trọn chẳng
mê.
- Chớ học kẻ tìm
cầu,
- Suốt ngày
nói bồ đề.
- Thông lại hỏi: Cái
nghiã của tứ trí có thể nghe được chăng?
- Sư nói: Ðã hiểu tam thân, tức rõ tứ
trí, sao còn hỏi nữa! Nếu lià tam thân
mà nói tứ trí, ấy gọi là có
trí mà chẳng có thân, dẫu cho có
trí cũng trở thành vô trí. Lại nói kệ
rằng:
- Ðại viên cảnh trí
tánh thanh tịnh,
- Bình đẳng tánh
trí tâm vô bệnh.
- Diệu quan sát trí kiến
phi công,
- Thành sở tác trí
đồng viên cảnh.
- Ngũ bát lục thất quả nhân
chuyển,
- Ðản dụng danh ngôn vô
thật tánh.
- Nhược kim chuyển xứ bất lưu
tình,
- Phiền hưng vĩnh xứ Na Già định.
- Dịch nghiã:
- Ðại viên
cảnh trí tánh thanh tịnh,
- Bình đẳng
tánh trí tâm chẳng bệnh.
- Diệu quan
sát trí chẳng tác ý. (Sự thấy của diệu quan sát trí
chẳng cần tác ý)
- Thành sở
tác trí đồng viên cảnh.
- Ngũ, bát, lục,
thất quả nhân chuyển,
- Chỉ dùng
tên gọi chẳng thật tánh.
- Nếu ngay nơi chuyển
chẳng dính mắc,
- Ở chỗ náo động
cũng đại định.
- Như thế là
chuyển thức thành trí.
Trong
giáo môn chuyển tiền ngũ thức làm Thành Sở
Tác Trí; chuyển thức thứ sáu thành Diệu
Quan Sát Trí, chuyển thức thứ bảy thành
Bình Ðẳng Tánh Trí, chuyển thức thứ tám
thành Ðại Viên Cảnh Trí. Dù thức thứ
sáu, bảy là trong nhân chuyển, thức thứ năm,
tám là trên qủa chuyển, nhưng chỉ chuyển cái
tên gọi mà chẳng chuyển cái thể vậy. Trí
Thông đốn ngộ tánh trí, bèn trình kệ
rằng:
- Tam thân nguyên ngã
thể,
- Tứ trí bổn tâm minh,
- Thân trí dung vô
ngại,
- Ứng vật nhậm tùy hình.
- Khởi tu giai vọng động,
- Thủ trụ phi chơn tinh.
- Diệu chỉ nhân sư hiểu,
- Chung vong nhiễm ô danh.
- Dịch nghiã:
- Thể ta sẵn tam
thân,
- Bản tâm đủ tứ
trí.
- Thân trí
dung lẫn nhau,
- Tiếp vật tùy cơ
ứng.
- Mống tâm tu
là vọng,
- Giữ yên cũng
chẳng chơn.
- Nhờ Sư thấu diệu chỉ,
- Chẳng còn kẹt
danh tướng.
Tăng Trí
Thường, người ở Quí Khê tỉnh Tín Châu, xuất
gia lúc còn nhỏ tuổi, quyết chí cầu kiến
tánh. Một hôm đến tham lễ, Sư hỏi:
Ngươi từ đâu đến, muốn cầu việc gì? Ðáp:
Ðệ tử gần đây đến núi Bạch Phong ở Hồng Châu lễ
Hoà Thượng Ðại Thông, nhờ chỉ dạy cái diệu
nghiã kiến tánh thành Phật, nhưng chưa hết nghi
ngờ, nên từ xa đến đảnh lễ, mong Hoà Thượng khai thị. Sư hỏi: Hoà Thượng Ðại Thông
nói thế nào? Ngươi thử nói xem. Ðáp: Trí Thường đến đó
trải qua ba tháng chưa được chỉ dạy, trong lòng tha thiết
vì Pháp, nên một hôm vào trượng thất
hỏi Thế nào là bản tâm bản tánh của
Trí Thường? Hòa Thượng hỏi:
Ngươi thấy hư không chăng? Ðáp:
Thấy. Hỏi: Ngươi thấy hư không
có tướng mạo chăng? Ðáp:
Hư không vô hình đâu có tướng mạo! Hòa Thượng nói: Bản tánh
của ngươi cũng như hư không, chẳng có một vật để thấy gọi
là chánh kiến, chẳng có một vật để biết gọi
là chơn tri, chẳng có xanh vàng dài ngắn,
chỉ thấy bổn nguyên thanh tịnh, giác thể sáng
tròn, gọi là kiến tánh thành Phật, cũng gọi
là tri kiến của Như Lai. Ðệ tử dù nghe nói như
vậy mà tâm còn chưa lãnh hội, xin Hoà
Thượng khai thị. Sư nói:
Cái thuyết của Ðại Thông vẫn còn tri kiến
nên khiến ngươi chẳng lãnh hội. Nay ta cho ngươi một
bài kệ:
- Bất kiến nhất pháp tồn vô
kiến,
- Ðại tự phù vân
giá nhựt diện,
- Bất tri nhất pháp thủ
không tri,
- Hườn như thái hư sanh thiểm
điện.
- Thử chi tri kiến miết nhiên hưng,
- Thố nhận hà tằng giải phương
tiện.
- Nhữ đương nhất niệm tự tri phi,
- Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
- Dịch nghiã:
- Chẳng thấy một pháp
thành vô kiến,
- Như mây đen che khuất mặt trời.
- Chẳng biết một pháp
thành vô tri,
- Lại như hư không sanh điện chớp.
- Như thế vẫn còn chấp tri kiến,
- Nhận lầm chưa hiểu thấu phương tiện,
- Ngươi phải trong niệm tự biết quấy,
- Ánh sáng tự tánh
thường hiển hiện.
- Trí Thường nghe xong
hoát nhiên tâm ngộ, bèn nói kệ rằng:
- Vô đoan khởi tri kiến,Trước
tướng cầu bồ đề.
- Tình tồn nhất niệm ngộ.
- Ninh việt tích thời mê.
- Tự tánh giác
nguyên thể,
- Tùy chiếu uổng thiên lưu.
- Bất nhập Tổ Sư thất,
- Mang nhiên thú lưỡng đầu.
- Dịch nghiã:
- Khi không khởi
tri kiến,
- Chấp tướng cầu Bồ đề.
- Tình chấp một
niệm ngộ,
- Khó siêu
nhiều kiếp mê.
- Bản thể tự tánh
giác,
- Tùy chiếu vọng
lưu chuyển.
- Chẳng vào thất
Tổ sư,
- Si mê chạy
hai đầu. (Hai đầu: nhị biên, tức là
biên kiến).
Một hôm
Trí Thường hỏi Sư: Phật thuyết pháp tam thừa, lại thuyết
tối thượng thừa là thế nào? Ðệ tử chưa rõ, xin
Thầy dạy bảo. Sư nói: Ngươi chỉ nên tự xét bản tâm, chớ
chấp trước pháp tướng bên ngoài, pháp chẳng
bốn thừa, tâm ngươi tự có sai biệt: Thấy nghe tụng niệm
là tiểu thừa; ngộ pháp hiểu nghiã là trung
thừa; y pháp tu hành là đại thừa; vạn pháp
thông đạt, vạn pháp đầy đủ, tất cả chẳng nhiễm, lià
các pháp tướng, trọn vô sở đắc, gọi là tối
thượng thừa. Thừa nghiã là hành, chẳng ở
nơi tranh biện, ngươi nên tự tu, chớ hỏi ta vậy, trong bất cứ
lúc nào, tự tánh tự như như. Trí Thường lễ
tạ, làm thị giả trọn đời Sư.
Tăng Chí
Ðạo, người Nam Hải tỉnh Quảng Châu, đến xin chỉ dạy: Ðệ
tử từ lúc xuất gia đến nay, xem Kinh Niết Bàn đã
hơn mười năm nhưng chưa rõ đại ý, xin Hoà Thượng
chỉ dạy. Sư hỏi: Ngươi chưa rõ chỗ
nào? Chí Ðạo nói: Các hạnh vô
thường là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt xong, tịch diệt
làm vui (lạc đức). Ðệ tử nghi ngờ chỗ nầy. Sư hỏi: Ngươi nghi ngờ cái gì? Ðáp: Tất cả chúng sanh
có hai thân, gọi là sắc thân và
pháp thân. Sắc thân vô thường, có sanh
có diệt, pháp thân có thường, chẳng tri
chẳng giác. Kinh nói sanh diệt diệt xong, tịch diệt
làm vui, chẳng biết thân nào tịch diệt, thân
nào được vui? Nếu nói sắc thân được vui, sắc
thân lúc diệt thì tứ đại tan rã, toàn
thể là khổ, khổ chẳng thể nói là vui. Nếu
pháp thân tịch diệt thì đồng như cây cỏ
ngói đá, ai mà được vui? Lại pháp
tánh là cái thể của sanh diệt, ngũ uẩn là
dụng của sanh diệt, một thể năm dụng, sanh diệt là thường, sanh
thì từ thể khởi dụng, diệt thì nhiếp dụng trở về thể. Nếu
cho sanh nữa tức là loài hữu tình chẳng đoạn chẳng
diệt; nếu chẳng cho sanh nữa thì vĩnh viễn tịch diệt, đồng với
loài vô tình, như thế thì tất cả các
pháp đều bị Niết Bàn ngăn cấm, sanh còn chẳng
được, có gì là vui? Sư
nói: Ngươi là Phật tử, sao lại học tà kiến
ngoại đạo, chấp đoạn chấp thường mà luận bàn pháp
tối thượng thừa! Theo lời ngươi nói thì ngoài sắc
thân lại có pháp thân, lià sanh diệt
cầu nơi tịch diệt, lại cho thường đức, lạc đức của Niết Bàn
là có thân để thọ dụng, ấy đều là mê
chấp và ham tiếc sanh tử, đam mê sự vui của thế gian.
Ngươi nay nên biết, Phật vì tất cả người mê, nhận
lầm ngũ uẩn hoà hợp là tướng tự thể, lầm cho tất cả
pháp là tướng ngoại trần, tham sống sợ chết, niệm niệm
trôi lăn trong lục đạo, chẳng biết đều như mộng huyễn hư giả,
uổng chịu luân hồi, đem thường đức, lạc đức của Niết Bàn
trở thành tướng khổ, suốt ngày tìm cầu. Phật
vì thương xót cho những người này, nên khai
thị chơn lạc của Niết Bàn, sát na chẳng có tướng
sanh, sát na chẳng có tướng diệt, cũng chẳng có
sanh diệt để diệt, ấy tức là tịch diệt hiện tiền. Ðang
lúc hiện tiền, cũng chẳng có số lượng hiện tiền,
nghiã là chẳng có một tí khái niệm
nào về không gian, thời gian, và số lượng của tịch
diệt hiện tiền, mới gọi là thường đức, lạc đức, nghiã
là chơn vui. Vui này chẳng có kẻ thọ dụng, cũng
chẳng có kẻ không thọ dụng, há có cái
tên gọi một thể năm dụngế sao! Huống là còn
nói Niết Bàn ngăn cấm các pháp khiến cho
chẳng sanh, ấy là phỉ báng Phật pháp. Hãy
nghe kệ đây:
- Vô thượng Ðại Niết
Bàn,
- Viên minh thường tịch chiếu.
- Phàm ngu vị chi tử,
- Ngoại đạo chấp vi đoạn.
- Chư cầu nhị thừa nhân.
- Mục dĩ vi vô tác.
- Tận thuộc tình sở kế,
- Lục thập nhị kiến bản.
- Vọng lập hư giả danh,
- Hà vi chơn thật nghiã.
- Duy hữu quá lượng nhơn,
- Thông đạt vô thủ xả.
- Dĩ tri ngũ uẩn pháp,
- Cập dỉ uẩn trung ngã,
- Ngoại hiện chúng sắc tượng,
- Nhất nhất âm thanh tướng,
- Bình đẳng như mộng huyễn,
- Bất khởi phàm thánh kiến,
- Bất tác Niết Bàn giải,
- Nhị biên tam tế đoạn.
- Thường ứng chư căn dụng,
- Nhi bất khởi dụng tưởng.
- Phân biệt nhất thiết pháp,
- Bất khởi phân biệt tưởng.
- Kiếp hỏa thiêu hải để,
- Phong cổ sơn tương kích.
- Chơn thường tịch diệt lạc,
- Niết Bàn tướng như thị.
- Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,
- Linh nhữ xã tà kiến.
- Nhữ vật tuỳ ngôn giải,
- Hứa nhữ tri thiểu phần.
- Dịch nghiã:
- Vô thượng đại
Niết Bàn,
- Sáng
tròn thường tịch chiếu,
- Phàm phu gọi
là chết,
- Ngoại đạo chấp đoạn
diệt.
- Những người tu nhị
thừa,
- Cho đó
là vô tác.
- Thảy đều do
tình thức,
- Sáu mươi hai
kiến chấp. (1)
- Vọng lập tên hư
giả,
- Ðâu phải
nghiã chơn thật.
- Chỉ có người
kiến tánh,
- Thông đạt chẳng
lấy bỏ,
- Vì biết
pháp ngũ uẩn.
- Với cái
ngã trong uẩn,
- Cả hiện tượng thế giới,
- Mỗi sắc tướng âm
thanh,
- Bình đẳng như
mộng huyễn,
- Chẳng phân biệt
thánh phàm,
- Chẳng cho là
Niết Bàn.
- Nhị biên
tam tế dứt. (Nhị
biên: đối đãi biên kiến; tam tế: quá khứ hiện
tại, vị lai).
- Thường ứng các
căn dụng, (2)
- Mà chẳng khởi
dụng tưởng,
- Phân biệt tất cả
pháp, (3)
- Chẳng khởi phân
biệt tưởng.
- Niết Bàn vốn
phi vật,
- Lửa gió đụng
chẳng được.
- Chơn vui thường tịch
diệt,
- Tướng Niết Bàn
như thế,
- Nay ta gượng
nói ra,
- Khiến ngươi bỏ
tà kiến.
- Chớ hiểu theo lời
nói,
- Mới cho biết ít
phần.
- Chí Ðạo nghe xong đại ngộ,
vui mừng đảnh lễ lui ra.
GHI CHÚ :
(1)
62 kiến chấp: Tứ cú x ngũ uẩn = 20, 20 x tam tế = 60, 60 +
thêm Hữu và Vô (nguồn gốc của tất cả nhị biên
đối đãi) = 62. Tất cả kiến chấp đều không ở ngoài
62 kiến chấp này.
(2)
Thường ứng các căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng: Thường
ứng là tả sự dụng của tự tánh chẳng tác ý,
như bóng hiện trong gương, luôn luôn như thế.
Ví như dùng cơm chỉ là dùng cơm, chẳng
có năng sở, nên nói Thường ứng các căn dụng,
mà chẳng khởi dụng tưởng. Còn dụng tưởng thì
có tác ý, nên có năng sở, cho ta
là năng dùng, cơm là sở dùng.
(3)
Phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng:
Phân biệt tất cả pháp mà chẳng tác ý
ví như cơm chỉ là cơm, nước chỉ là nước,
còn phân biệt tưởng là có tác
ý, nên có cơm ngon cơm dở, nước trong nước đục.
Hành Tư Thiền Sư, họ Lưu, sanh ở An Thành, tỉnh
Kiết Châu. Nghe nói Tào Khê giáo
pháp thịnh hành, bèn đến tham lễ, hỏi: Nên
làm việc gì để khỏi lọt vào giai cấp? Sư hỏi:
Ngươi đã từng làm việc gì? Ðáp:
Thánh đế cũng chẳng làm. Sư
hỏi: Lọt vào giai cấp nào? Ðáp:
Thánh đế còn chẳng làm, giai cấp nào
mà có! Sư rất trọng, cho là pháp
khí, cho làm quản chúng. Một hôm Sư nói: Ngươi nên hoá độ một nơi, chớ cho đoạn
dứt giáo pháp đốn ngộ này. Hành Tư Thiền Sư
đã đắc pháp, bèn về núi Thanh Nguyên
ở Kiết Châu hoằng pháp, sau được vua sắc phong, hiệu
là Hoằng Tế Thiền Sư.
Hoài Nhượng Thiền Sư, họ Ðỗ ở Kim Châu.
Lúc ban đầu đến lễ An Quốc Sư ở Tung Sơn, An Quốc Sư sai đến
Tào Khê tham vấn. Nhượng đến lễ bái. Sư hỏi: Từ
đâu đến? Ðáp: Tung Sơn. Sư hỏi:Cái vật gì mà đến như
vậy? Nhượng trả lời chẳng được, nổi nghi tình trải qua
tám năm, sau nói với Sư: Nói tựa như một vật
thì chẳng đúng. Sư hỏi:
Còn có thể tu chứng chăng? Ðáp:
Tu chứng thì chẳng phải không, ô nhiễm thì
chẳng thể được. Sư ấn chứng rằng: Chỉ cái chẳng ô nhiễm
này chư Phật đều hộ niệm, ngươi đã như vậy, ta cũng như
vậy. Nhượng hoát nhiên đại ngộ, bèn làm thị
giả bên Sư mười lăm năm, ngày càng thấu triệt huyền
chỉ thâm sâu. Sau đến núi Nam Nhạc, rộng truyền
Thiền Tông, được vua sắc phong, hiệu Ðại
Huệ Thiền Sư.
Vĩnh Gia Huyền
Giác Thiền Sư, họ Ðới quê ở Ôn Châu. Thuở
nhỏ tu học Kinh Luận, chuyên về pháp môn chỉ
quán của Thiên Thai Tông, nhân xem Kinh Duy Ma
Cật phát minh tâm địa (kiến tánh). Bỗng gặp đệ tử
của Sư là Huyền Sách đến thăm, luận đàm với nhau;
thấy lời nói của Huyền Giác khế hợp với Chư Tổ, Huyền Sách hỏi: Thượng Tọa đắc
pháp nơi Thầy nào? Ðáp:
Tôi nghe giảng Kinh Luận Ðại Thừa, mỗi mỗi đều có Thầy
truyền thừa, sau xem Kinh Duy Ma Cật ngộ tự tâm Phật, nhưng chưa
có Thầy ấn chứng. Huyền Sách
nói: Trước thời Phật Oai Âm Vương thì được,
sau thời Phật Oai Âm Vương, không Thầy mà tự ngộ, ấy
đều là thiên nhiên ngoại đạo. Giác
nói: Vậy xin nhờ Thượng Tọa vì tôi ấn chứng.
Sách nói: Lời tôi chẳng đáng kể, ở
Tào Khê nay có Lục Tổ Ðại Sư, các nơi
đều tụ tập đến đó để thọ pháp, hễ đi thì
cùng nhau đi. Huyền Giác bèn cùng với Huyền
Sách đến tham vấn. Khi đến gặp Sư, Huyền Giác đi nhiễu ba
vòng rồi đứng lại chống tích trượng. Sư nói: Bậc Sa môn phải đầy đủ ba
ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, Ðại Ðức từ
đâu đến mà sanh đại ngã mạn! Giác
đáp: Sanh tử việc lớn, vô thường nhanh chóng.Sư nói: Sao chẳng thể cứu (tham cứu)
cái pháp vô sanh, liễu ngộ cái chẳng nhanh
chóng ấy ư? Ðáp: Thể
tức vô sanh, liễu vốn chẳng chóng. Sư bèn ấn chứng:
Ðúng thế, đúng thế! Lúc bấy giờ Huyền
Giác mới trang nghiêm lễ bái, giây lát
sau liền từ giã. Sư nói:
Sao về chóng thế? Ðáp:
Tự vốn chẳng động, há có chóng sao?" Sư hỏi: Ai biết chẳng động? Ðáp: Hoà Thượng tự sanh
phân biệt. Sư nói: Ngươi
thật được ý vô sanh. Ðáp:
Vô sanh há có ý sao? Sư
hỏi: Không ý ai biết phân biệt? Ðáp: Phân biệt cũng chẳng
tác ý. Sư nói:
Lành thay! Hãy ở lại một đêm. Người thời ấy
tôn Huyền Giác là Nhất Túc Giác. Về
sau Giác soạn bài Chứng Ðạo Ca thịnh hành khắp
thế gian. Sau được sắc phong là Vô
Tướng Ðại Sư, người đời tôn là Chơn Giác.
Thiền Giả
Trí Hoàng, tham học với Ngũ Tổ, tự cho mình
đã được chánh thọ (chánh định), bèn chấp
ngồi mãi trong am hơn hai mươi năm. Ðệ tử của Sư là
Huyền Sách hành cước đến Hà Bắc, nghe tên
Trí Hoàng, liền đến am hỏi thăm. Ông ở đây
làm gì? Hoàng nói: Nhập định. Sách
hỏi: Ông nói nhập định, là có tâm nhập
hay là không tâm nhập? Nếu nói không
tâm nhập thì tất cả loài vô tình,
cây cối ngói đá đều phải được định; nếu nói
có tâm nhập thì tất cả loài hữu tình
cũng đều được định. Hoàng nói: Ta đang lúc nhập
định chẳng thấy có cái tâm CÓ và
KHÔNG. Sách nói: Chẳng thấy có cái
tâm CÓ và KHÔNG tức là thường định,
đâu có xuất nhập? Hễ có xuất nhập thì chẳng
phải đại định. Hoàng không trả lời được, một lúc
sau mới hỏi: Thượng Tọa nối pháp ai? Sách nói:
Thầy tôi là Tào Khê Lục Tổ Ðại Sư. Hoàng hỏi: Lục Tổ lấy gì
làm thiền định? Sách nói: thầy tôi
nói: tự tánh huyền diệu trạm nhiên, viên
tròn tịch diệt, thể dụng như như, ngũ uẩn vốn không, lục
trần phi thật, chẳng xuất chẳng nhập, chẳng định chẳng loạn,
tánh thiền vô trụ, chẳng trụ nơi thiền tịch, tánh
thiền vô sanh, chẳng khởi thiền tưởng (chẳng tác ý
cho là thiền), tâm như hư không, cũng chẳng
có cái số lượng của hư không. Hoàng nghe
nói như vậy bèn đến lễ Sư. Sư hỏi:
Thượng Tọa từ đâu đến? Hoàng thuật lại nhân
duyên gặp Huyền Sách. Sư nói: Thật đúng như Huyền Sách nói. Ngươi hễ
tâm như hư không, chẳng chấp vào không, ứng
dụng vô ngại, động tịnh vô tâm (chẳng tác
ý), thánh phàm đều quên, năng sở đều diệt,
tánh tướng như như, thì không lúc nào
chẳng phải định vậy. Trí Hoàng do đó đại ngộ,
cái tâm sở đắc từ hai mươi năm đến nay đều tan rã
chẳng còn hình bóng. Sau từ giã Sư về nơi
Hà Bắc hoằng pháp, khai hoá tứ chúng.
Có một
đồng tử tên là Thần Hội, họ Cao, ở Tương Dương. Lúc
mười ba tuổi từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ. Sư nói: Tri thức từ xa đến khổ nhọc,
có đem theo cái bản lai đến chăng? Nếu có bản lai
thì phải biết chủ nhơn, thử nói xem!
Hội đáp: Lấy vô trụ làm bản, cái thấy
tức là chủ. Sư nói: Sa di
này hay nói càn! Hội lại
hỏi: Hoà Thượng toạ thiền thấy hay chẳng thấy? Sư cầm
cây gậy đánh cho ba cái, hỏi:
Ta đánh ngươi có đau hay chẳng đau? Ðáp: Cũng
đau cũng không đau. Sư nói:
Ta cũng thấy cũng chẳng thấy! Hỏi:Thế
nào là cũng thấy cũng chẳng thấy? Sư
nói: Cái thấy của ta,
thường thấy lỗi của tự tâm, chẳng thấy phải quấy tốt xấu của
người, cho nên cũng thấy cũng chẳng thấy. Ngươi nói cũng
đau cũng chẳng đau là thế nào? Nếu chẳng đau thì
đồng với cỏ đá, nếu đau thì đồng với phàm phu,
liền khởi sân hận. Ngươi vừa hỏi thấy, không thấy là
nhị biên (đối đãi), nói đau, không đau là sanh
diệt, tự tánh ngươi còn chẳng tự thấy mà
dám đùa người khác! Thần Hội bèn lễ
bái cầu xin sám hối. Sư lại
nói: Ngươi nếu tâm mê chẳng thấy, cần phải
hỏi thiện tri thức để chỉ đường, ngươi nếu tâm ngộ tức tự thấy
tánh, phải y pháp tu hành. Nay ngươi mê
chẳng thấy tự tâm, lại đến hỏi ta thấy hay không thấy, ta
thấy tự ta biết, chẳng dính dáng cái mê của
ngươi, ngươi nếu tự thấy, cũng chẳng dính dáng cái
mê của ta, sao chẳng tự thấy tự biết, mà lại hỏi ta thấy
hay chẳng thấy! Thần Hội lại lễ thêm hơn trăm lạy, xin sám
hối tội lỗi, ân cần hầu hạ bên Sư chẳng rời. Một hôm Sư bảo chúng: Ta có
một vật, chẳng đầu chẳng đuôi, chẳng danh chẳng tự, chẳng lưng
chẳng mặt, các ngươi có biết chăng? Thần
Hội bèn ra nói: Ấy là bổn nguyên của
chư Phật, Phật tánh của Thần Hội. Sư
nói: Ðã nói với ngươi là chẳng
danh chẳng tự, ngươi bèn gọi là bổn nguyên Phật
tánh, ngươi sau này dẫu cho có ra hoằng
pháp cũng chỉ thành một môn đồ tri giải mà
thôi. Sau khi Lục Tổ viên tịch, Thần Hội vào trong
Kinh thành Lạc Dương, rộng truyền đốn giáo của Tào
Khê, soạn bộ Hiển Tông Ký, thịnh hành nơi
đời, hiệu là Hà Trạch Thiền Sư.
Tăng hỏi Sư: Ý chỉ của Huỳnh Mai
người nào được? Sư đáp:
Người hiểu Phật pháp được. Hỏi: Hoà
Thượng có được chăng? Ðáp:
Ta chẳng hiểu Phật pháp.
Một hôm,
Sư muốn giặt cái y của Ngũ Tổ truyền thọ mà xung quanh
không có suối tốt, nên đi đến cách sau
chùa năm dặm, thấy có núi rừng xanh biếc, thoại
khí vòng quanh (thoại khí là triệu chứng
tốt lành hiện trên không khí, nhưng phải
là người có pháp nhãn mới thấy được.) Sư
dộng tích trượng xuống đất, nước suối ngay đó trào
ra, chảy thành cái ao. Sư quỳ trên đá
mà giặt y. Có vị Tăng ở Tây Thục tên
là Phương Biện đến lễ Sư, Sư hỏi:
Thượng Tọa làm nghề gì? Ðáp:
Thợ đắp tượng. Sư nghiêm mặt lại nói:
Ngươi thử đắp ta xem! Biện ngơ ngác, qua mấy ngày sau đắp
xong chơn tượng, cao bảy tấc, nét mặt tánh tình
đều được tỏ bày khéo léo. Sư cười nói:
Ngươi khéo tánh đắp tượng mà chẳng hiểu
tánh Phật. Sư rờ đầu thọ ký, dặn phải trọn làm
phước điền cho trời người; rồi lấy y mà trả công. Biện
chia y làm ba phần: một phần đắp lên pho tượng, một phần
tự giữ lấy, một phần lấy lá cây kè gói lại,
xong chôn dưới đất, nguyện rằng: Cho tôi đời sau được y
này, làm trụ trì nơi đây, xây dựng lại
chùa chiền. Ðến năm thứ tám, niên hiệu Gia Hữu
đời Nhà Tống (1056-1063, cách đó 380 năm),
có vị Tăng tên là Duy Tiên đến đó tu
sửa lại chùa chiền, đào đất được y còn như mới.
Pho tượng của Sư còn giữ ở chùa Cao Tuyền.
Có vị
Tăng đem bài kệ của Ngọa Luân thiền sư lập lại với Sư, Kệ
rằng:
- Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
- Năng đoạn bá tư tưởng.
- Ðối cảnh tâm bất khởi,
- Bồ đề nhựt nhựt trưởng.
- Dịch nghiã:
- Ngoạ Luân
có bản lãnh,
- Dứt được trăm tư tưởng.
- Ðối cảnh tâm
chẳng khởi,
- Bồ đề luôn
luôn trưởng.
Sư nghe xong nói: Kệ này
chưa rõ tâm địa, nếu theo đó mà hành
thì lại thêm trói buộc. Do đó khai thị một
bài kệ:
- Huệ Năng một kỹ lưỡng,
- Bất đoạn bá tư tưởng.
- Ðối cảnh tâm số khởi,
- Bồ đề tác ma trưởng.
- Dịch
nghiã:
- Huệ Năng không bản
lãnh,
- Chẳng dứt trăm tư tưởng.
- Bồ đề làm sao trưởng!
Lúc Sư
hoằng pháp tại chùa Bửu Lâm, Tào Khê,
ở miền Nam, thì Thần Tú Ðại Sư tại chùa Ngọc
Tuyền, Kinh Nam, ở miền Bắc. Thời ấy hai tông thịnh hành,
người đời xưng là Nam Năng, Bắc Tú, nên có
Nam Bắc đốn tiệm hai tông, mà người học đạo chẳng biết
tông chỉ của Nam Bắc như thế nào. Sư
bảo chúng: Pháp vốn một tông mà người
có Nam Bắc; pháp chỉ một thứ nhưng sự thấy có
nhanh chậm. Sao gọi là đốn tiệm? Pháp chẳng đốn tiệm,
theo căn tánh con người thì có lợi độn, nên
gọi đốn tiệm. Nhưng đồ chúng của Thần Tú thường hay khinh
chê Tổ Sư ở miền Nam là người chẳng biết chữ, đâu
có gì hay? Thần Tú
nói: Lục Tổ đắc Vô Sư Trí, triệt ngộ
pháp tối thượng thừa, ta chẳng bằng được. Vả lại được Thầy ta
Ngũ Tổ thân truyền y pháp, đâu phải khi không
mà được! Ta tiếc chẳng thể đi xa để được thân cận, uổng
chịu quốc ân. Các ngươi chớ bị kẹt nơi đây,
nên đi đến Tào Khê để tham học. Một hôm, Thần
Tú sai môn đồ Chí Thành: Ngươi thông
minh có trí, hãy thay ta đến Tào Khê
nghe pháp, tận tâm ghi nhớ các điều thấy nghe, về
lập lại cho ta. Chí Thành vâng lời, bèn đến
Tào Khê, theo chúng tham học mà chẳng
nói từ chỗ nào đến. Lúc đó Sư bảo
chúng: Nay có kẻ trộm pháp đang ẩn trong hội
này. Chí Thành bèn bước ra lễ bái,
bạch rõ nguyên do. Sư nói: Ngươi
từ Ngọc Tuyền đến tức là mật thám vậy. Ðáp: Chẳng phải. Sư nói: Sao
lại chẳng phải? Ðáp:
Lúc chưa nói ra thì phải, nói ra rồi
thì chẳng phải. Sư hỏi: Thầy ngươi lấy gì để dạy
chúng? Ðáp: Thầy
tôi thường khuyên dạy chúng trụ tâm
quán tịnh, ngồi mãi chẳng nằm. Sư
nói: Trụ tâm quán tịnh là bệnh chứ
chẳng phải thiền, ngồi mãi là trói thân, với
đạo có ích lợi gì? Hãy nghe kệ đây:
- Sanh lai tọa bất ngọa,
- Tử khứ ngọa bất tọa.
- Nguyên thị xú cốt đầu,
- Hà vi lập công
khoá.
- Dịch nghiã:
- Lúc sống
thì ngồi chẳng nằm,
- Lúc chết
thì nằm chẳng ngồi.
- Vốn là đống
xương hôi thúi,
- Ðâu thể
thành lập công phu?
Chí
Thành lại lễ Sư: Ðệ tử ở nơi Thần Tú Ðại Sư học
đạo chín năm mà chẳng được khế ngộ, nay nghe Hoà
Thượng một lời liền khế ngộ bản tâm. Sanh tử của đệ tử là
việc lớn, xin Hoà Thượng từ bi chỉ dạy thêm. Sư nói: Ta nghe nói Thầy ngươi
dạy người học pháp: giới, định, huệ; chẳng biết hành
tướng giới định huệ như thê nào, hãy nói thử
xem. Chí Thành nói:
Thần Tú Ðại Sư nói: những điều ác chớ
làm gọi là giới, những điều lành phụng hành
gọi là huệ, ý căn tự trong sạch gọi là định.
Ðại Sư dạy như thế, chưa biết Hoà Thượng lấy pháp
gì để dạy người? Sư nói: Nếu nói có pháp dạy người ấy
là dối ngươi, ta chỉ tuỳ theo căn cơ để mở trói, giả danh
tam muội. Như giới định huệ của Thầy ngươi thật là bất
khả tư nghì, giới định huệ của ta lại khác. Hỏi: Giới định huệ chỉ nên có một,
sao lại có khác? Sư nói:
Giới định huệ của Thầy ngươi độ người đại thừa, giới định huệ của ta
tiếp người tối thượng thừa, chỗ ngộ giải chẳng đồng nên sự thấy
có nhanh chậm. Hãy nghe ta
nói, xem có giống Thầy ngươi chăng! Ta thuyết
pháp chẳng lià tự tánh, lià tánh
thuyết pháp, khiến cho tự tánh thường mê, ấy
là tướng thuyết. Nên biết tất cả pháp đều từ tự
tánh khởi dụng, ấy là chơn pháp của giới định huệ
vậy. Hãy nghe kệ đây:
- Tâm địa vô phi tự
tánh giới,
- Tâm địa vô si tự
tánh huệ,
- Tâm địa vô loạn tự
tánh định.
- Bất tăng bất giảm tự kim cang,
- Thân khứ thân lai bổn tam
muội.
- Dịch nghiã:
- Tâm địa chẳng
quấy tự tánh giới,
- Tâm địa chẳng si
tự tánh huệ,
- Tâm địa chẳng
loạn tự tánh định.
- Chẳng thêm chẳng
bớt tự như như,
- Thân đến
thân đi vốn tam muội.
- Chí
Thành nghe xong cảm tạ, trình kệ rằng:
- Ngũ uẩn huyễn thân,
- Huyễn hà cứu cánh.
- Hồi thú chơn như,
- Pháp hườn bất tịnh.
- Dịch nghiã:
- Ngũ uẩn thân
huyễn hoá,
- Huyễn đâu
có cứu cánh.
- Trở về với chơn như,
- Chấp pháp vẫn
chẳng tịnh (chẳng thanh tịnh)
Sư cho là
đúng, lại bảo Chí Thành:
Giới định huệ của Thầy ngươi dạy người căn khí nhỏ, giới định
huệ của ta dạy người căn khí lớn. Nếu ngộ
được tự tánh, cũng chẳng lập Bồ Ðề Niết Bàn, cũng
chẳng lập giải thoát tri kiến, chẳng có một pháp
có thể đắc, như thế mới được kiến lập vạn pháp. Nếu thấu
lý này, cũng gọi là Bồ Ðề Niết Bàn,
cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người kiến tánh
lập cũng được, chẳng lập cũng được, đi lại tự do, chẳng trệ chẳng ngại,
cần dùng liền làm, cần nói liền đáp
(làm và nói đều chẳng tác ý), khắp
hiện hoá thân chẳng lià tự tánh, tức được
thần thông tự tại, du hý tam muội, gọi là kiến
tánh. Chí Thành lại bạch: Thế nào
là nghiã Chẳng lập? Sư nói: Tự
tánh chẳng quấy chẳng si chẳng loạn, niệm niệm quán chiếu
Bát Nhã, thường lià pháp tướng, tự do tự
tại, thuận nghịch đều được, có gì để lập? Tự tánh
tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, cũng chẳng thứ tự, cho nên chẳng lập tất
cả pháp, các pháp tịch diệt, đâu có
thứ lớp? Chí Thành lễ bái, nguyện làm thị
giả hầu hạ sớm chiều.
Tăng Chí
Triệt, họ Trương tên Hành Xương, người ở Giang Tây,
thuở nhỏ tánh hào hiệp. Lúc ấy Nam Bắc chia ra hai
tông, tuy Lục Tổ và Thần Tú Ðại Sư không
phân chia bỉ thử, nhưng đồ chúng lại cạnh tranh với nhau
sanh lòng ưa ghét, mà môn đồ bên Bắc
Tông tự lập Thần Tú làm Tổ thứ 6, lại sợ người đời
biết được sự truyền y của Ngũ Tổ, nên sai Hành Xương đến
ám sát Lục Tổ. Sư tâm thông đã biết
việc này, bèn lấy mười lượng vàng để nơi ghế ngồi.
Lúc tối Hành Xương lén vào thất muốn
ám sát. Sư đưa cổ cho chém. Hành Xương cầm
kiếm chém ba lần, chẳng gây vết thương. Sư nói: Chánh kiến (kiếm) chẳng
tà, tà kiến (kiếm) chẳng chánh (theo Hán
tự, chữ kiến với chữ kiếm khác chữ đồng âm, ở đây
là một lời hai nghiã), chỉ nợ ngươi vàng, chẳng nợ
ngươi mạng. Hành Xương kinh sợ ngã xỉu, một hồi lâu
mới tỉnh dậy, ăn năn cầu xin sám hối, bèn xin xuất gia.
Sư đưa vàng cho và dặn: Ngươi hãy đi, sợ đồ
chúng biết được sẽ sát hại ngươi, để ngày
khác ngươi thay đổi hình dạng rồi trở lại, ta sẽ cho thỏa
nguyện. Hành Xương nghe lời, nửa đêm trốn đi, sau ở nơi
khác xuất gia. Một hôm nhớ đến lời dặn của Sư, bèn
từ xa đến tham lễ. Sư nói: Ta chờ
ngươi đã lâu, sao đến trễ vậy? Hành
Xương nói: Ngày trước được Hòa Thượng
xá tội, nay dù xuất gia khổ hạnh, nhưng khó
mà báo ơn, chỉ mong được Hoà Thượng truyền
pháp để độ chúng sanh. Ðệ tử xem Kinh Niết
Bàn, chưa hiểu cái nghiã thường và vô
thường, xin Hoà Thượng từ bi giải thích sơ lược. Sư nói: Vô
thường tức Phật tánh, có thường tức cái tâm
phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy. Hành Xương nói: Lời của
Hoà Thượng rất nghịch lời văn trong Kinh. Sư
nói: Ta được truyền tâm ấn Phật, đâu
dám nghịch ý Kinh! Hành
Xương nói: Kinh nói Phật
tánh là thường, Hoà
Thượng lại nói là vô thường. Các
pháp thiện ác cho đến Bồ đề tâm đều là
vô thường, Hoà Thượng lại nói là thường, ấy
là trái nghịch nhau, khiến đệ tử lại thêm nghi ngờ.
Sư nói: Xưa kia ta nghe
Ni Vô Tận Tạng tụng qua một lần Kinh Niết Bàn, bèn
vì Ni giải thuyết, chẳng có một chữ một nghiã
không đúng với lời văn trong Kinh, cho đến nay vì
ngươi mà thuyết, trước sau chẳng khác. Hành Xương nói: Ðệ tử căn
tánh ngu muội, xin Hoà Thượng khai thị tỉ mỉ. Sư nói: Ngươi
biết chăng, Phật tánh nếu thường còn nói gì
về các pháp thiện ác; cho đến tận kiếp cũng chẳng
một người phát Bồ đề tâm, nên ta nói vô
thường, ấy chính là cái đạo chơn thường do Phật
thuyết vậy. Hơn nữa, tất cả các pháp nếu vô
thường thì mỗi mỗi đều có tự tánh riêng biệt
để lãnh thọ sanh tử, vậy thì tánh chơn thường khắp
nơi lại có chỗ thiếu sót, nên ta nói thường,
ấy chính là nghiã chơn vô thường của Phật.
Phật vì kẻ phàm phu tà đạo chấp nơi tà
thường, những người nhị thừa từ nơi thường, suy ra vô thường,
cộng thành tám thứ điên đảo, nên trong Kinh
Niết Bàn liễu nghiã phá những thiên kiến của
họ để tỏ bày tứ đức của Niết Bàn: chơn thường, chơn lạc,
chơn ngã, chơn tịnh. Ngươi nay theo lời trái
nghiã, lấy đoạn diệt vô thường và chấp thường
là cố định, mà hiểu lầm lời nói sau cùng
viên tròn vi diệu của Phật, dẫu cho xem Kinh ngàn
lần, có ích gì đâu? Hành Xương
hoát nhiên đại ngộ, nói kệ rằng:
- Nhân thủ vô thường
tâm,
- Phật thuyết hữu thường tánh.
- Bất tri phương tiện giả,
- Du xuân trì thập lịch.
- Ngã kim bất thi công,
- Phật tánh nhi hiện tiền.
- Phi Sư tương thọ dữ,
- Ngã diệc vô sở đắc.
- Dịch nghiã:
- Vì giữ
tâm vô thường,
- Phật nói
tánh có thường.
- Kẻ chẳng biết phương
tiện,
- Như mò sỏi
tưởng vàng,
- Nay ta chẳng
tác ý,
- Phật tánh tự
hiện tiền,
- Chẳng phải do thầy cho.
Ta cũng vô sở đắc. Sư nói: Ngươi nay
đã triệt ngộ, nên đổi tên Trí Triệt.
Trí Triệt lễ tạ lui ra.
LƯỢC GIẢI: Lời của chư
Phật chư Tổ chỉ tạm dùng để phá chấp: nói thường
là để phá chấp vô thường, nói vô
thường là để phá chấp thường, chớ không có
nghiã thật. Nên Kinh Lăng Nghiêm nói: Hễ
là lời nói thì đều chẳng có nghiã
thật. Phẩm tựa đã chỉ rõ Phật tánh phi thường phi
vô thường, do đó mặc dù lời Tổ với lời Phật
trái nghịch nhau, nhưng ý Tổ với ý Phật chẳng
khác là nghiã này vậy.
Sư thấy
môn đồ các tông tụ tập dưới Pháp toà,
đều khởi ác ý vấn nạn. Sư thương xót cho họ
nên bảo rằng: Người học đạo cần phải dứt
trừ cho sạch tất cả thiện niệm ác niệm, cho đến chẳng còn
chỗ để gắn tên, rồi lại gắn tên nơi tự tánh; tự
tánh vốn bất nhị, gọi là thật tánh. Từ nơi thật
tánh mới kiến lập tất cả giáo môn. (Như vậy,
Pháp môn của các tông dù có
khác, nhưng đều cùng xuất phát từ một nguồn, vốn
chẳng cao thấp, người học đạo chớ nên tranh giành hơn thua
mà trái nghịch với đạo). Còn Pháp đốn
giáo này thì cần phải ngay đó (chẳng
tác ý) tự ngộ tự thấy mới được. Ðại chúng nghe
xong thảy đều đảnh lễ, thờ Sư làm Thầy.
Ngày rằm
tháng giêng niên hiệu Thần Long nguyên
niên, vua Trung Tôn và Võ Tắc Thiên ban
chiếu rằng: Trẫm mời An Quốc Sư và Thần Tú Thiền Sư hai
vị vào cung cúng dường, thừa lúc muôn việc
nhàn rảnh để nghiên cứu đạo nhất thừa. Hai Sư khiêm
nhượng rằng: Ở miền Nam có Huệ Năng Thiền Sư được Ngũ Tổ mật
phó y pháp, truyền Phật tâm ấn, xin mời Sư đến để
hỏi. Nay sai nội thị Tiết Giản lãnh chiếu đến rước thỉnh, nguyện
Sư từ bi thương xót, mau đến kinh thành. Sư dâng
biểu cáo bệnh khước từ và xin được trọn đời ở trong
núi rừng. Tiết Giản hỏi: Các thiền đức nơi kinh
thành đều nói là muốn được ngộ đạo phải ngồi thiền
tập định, nếu không nhờ thiền định mà mong được giải
thoát thì chưa hề có vậy. Chưa biết cách
dạy bảo của sư như thế nào? Sư nói:
Ðạo do tâm ngộ chẳng
tại tọa. Kinh nói Nếu nói Như Lai có
nằm có ngồi, ấy là kẻ hành tà đạo. Tại sao
vậy? Vì tự tánh chẳng có
chỗ đến, cũng chẳng có chỗ đi, chẳng sanh chẳng diệt, gọi
là Như Lai Thanh Tịnh Thiền. Chư pháp không-tịch
là Như Lai Thanh Tịnh Tọa, cứu cánh chẳng có một
pháp để chứng đắc, huống chi là ngồi!
Tiết Giản nói:
Ðệ tử về Kinh, Hoàng Ðế ắt hỏi, xin Sư từ bi chỉ thị
tâm yếu, để về triều đình tâu lại hai vua và
người học đạo ở kinh thành, thí như một ngọn đèn
mồi cho trăm ngàn ngọn, khiến kẻ tối đều sáng,
dùng sáng truyền sáng, sáng mãi
chẳng hết.
Sư nói: Ðạo
chẳng sáng tối, sáng tối là nghiã sanh
diệt. Sáng mãi chẳng hết, cũng phải có lúc
hết, vì sáng tối là đối đãi lập danh,
nên Kinh Duy Ma Cật nói: Pháp chẳng thể so
sánh, vì chẳng đối đãi vậy.
Tiết Giản nói: Sáng dụ cho trí huệ, tối dụ
cho phiền não, người tu đạo nếu không lấy trí huệ
để chiếu phá phiền não thì cái sanh tử
đã từ vô thỉ, dựa vào đâu để ra khỏi?
Sư nói: Phiền não tức Bồ đề, chẳng hai chẳng khác.
Nếu nói lấy trí huệ để chiếu phá phiền não,
ấy là kiến giải của kẻ nhị thừa, người đại căn thượng trí
thì chẳng như vậy.
Hỏi: Thế nào là kiến
giải của người đại thừa?
Sư nói: Sáng với chẳng
sáng, phàm phu thấy có nhị, người trí liễu
đạt tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là thật
tánh vậy. Thật tánh ở nơi phàm ngu mà chẳng
bớt, nơi thánh hiền mà chẳng thêm; trụ nơi phiền
não mà chẳng loạn, ngay nơi thiền định mà chẳng
tịch, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đi chẳng đến, chẳng phải ở giữa,
cũng chẳng bên trong bên ngoài, chẳng sanh chẳng
diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng biến đổi, ấy gọi
là đạo.
Hỏi: Sư nói chẳng sanh chẳng diệt, vậy đâu
khác với ngoại đạo! Ðáp: Ngoại đạo nói chẳng
sanh chẳng diệt, là dùng diệt để dẹp sanh, dùng
sanh để tỏ diệt, sanh nơi chẳng sanh, diệt nơi chẳng diệt. Ta thuyết chẳng sanh chẳng diệt là: tự vốn
chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên khác với ngoại đạo.
Nếu ngươi muốn biết tâm yếu, nên đối với các
pháp thiện ác đều chớ suy lường, tự nhiên được
tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên thường tịch, diệu dụng hằng
sa. Tiết Giản được chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, lễ
bái từ giã về kinh, dâng biểu tâu thuật lại
lời nói của Sư. Ngày 3 tháng 9 năm ấy, vua ban
chiếu khen ngợi rằng: Thiền Sư cáo bệnh khước từ, đã
vì Trẫm tu hành, làm phước điền cho chúng
sanh. Sư như Ngài Duy Ma Cật, cáo bệnh ở thành Tỳ
Da để xiển dương đại thừa, truyền Phật tâm ấn, thuyết pháp
bất nhị. Tiết Giản truyền đạt lại tri kiến Như Lai của Sư chỉ dạy, cũng
là do Trẫm tích tụ phước đức, kiếp trước đã gieo
trồng thiện căn, nên được gặp Sư xuất hiện cùng đời, đốn
ngộ pháp tối thượng thừa, cảm đội ơn Sư chẳng thể nào
quên. Nay dâng chiếc Cà sa và bình
bát thủy tinh, sai quan thứ sử Thiều Châu tu sửa lại
chùa chiền, sắc phong cho nơi ở cũ của Sư (ở Tân
Châu) là Quốc Ân Tự.
Phẩm Phó Chúc Thứ
Mười
Một
hôm Sư gọi các đệ tử như Pháp Hải, Chí
Thành, Pháp Ðạt, Thần Hội, Trí Thường,
Trí Thông, Chí Triệt, Chí Ðạo,
Pháp Trân, Pháp Như nói: Các ngươi
chẳng như người khác, sau khi ta viên tịch, mỗi người
làm Thầy một nơi. Nay ta dạy các ngươi cách thuyết
pháp chẳng đánh mất bản tông. Trước tiên phải
y theo pháp môn TAM KHOA, dùng ba mươi sáu
pháp đối, ra vào (khai thị bằng lời nói hay cử
chỉ) thường lià nhị biên, thuyết tất cả pháp chẳng
lià tự tánh. Thí như có người hỏi
pháp, ý nghiã lời nói song song, đến
và đi làm nhân với nhau, đều dùng
pháp đối. Nếu không có đối đãi thì ba
pháp nhị biên và trung đạo đều dứt, chẳng
còn chỗ để nương tựa. Pháp môn Tam Khoa là
gì? Là ẤM, NHẬP, GIỚI: ẤM là ngũ ấm; gồm sắc, thọ,
tưởng, hành, thức. NHẬP có mười hai: bên
ngoài lục trần, gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp, bên trong lục căn, gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý. GIỚI có mười tám: gồm lục căn, lục
trần, lục thức. Tự tánh bao hàm vạn pháp, gọi
là Hàm Tạng Thức. Nếu khởi niệm suy lường tức là
chuyển thức, khiến sanh lục thức, ra cửa lục căn, tiếp xúc lục
trần. Như vậy mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng, tự
tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, tự
tánh nếu chánh thì khởi mười tám
chánh, niệm ác dụng tức chúng sanh dụng, niệm
thiện dụng tức Phật dụng. Dụng bằng cách nào? Là
do tự tánh lập ra pháp đối: Ngoại cảnh vô
tình có năm đối: Trời đối đất, nhựt đối nguyệt,
sáng đối tối, âm đối dương, thủy đối hỏa, ấy là năm
đối. Pháp tướng ngôn ngữ có mười hai đối: ngữ đối
pháp, hữu đối vô, hữu sắc đối vô sắc, hữu tướng đối
vô tướng, hữu lậu đối vô lậu, sắc đối không, động đối
tịnh, thanh đối trược, phàm đối thánh, tăng đối tục,
già đối trẻ, lớn đối nhỏ, ấy là mười hai đối. Tự
tánh khởi mười chín đối: dài đối ngắn, tà
đối chánh, si đối huệ, ngu đối trí, loạn đối định, từ đối
độc, giới đối quấy, trực đối khúc, thật đối hư, chông gai
đối bằng phẳng, phiền não đối bồ đề, thường đối vô thường,
bi đối hại, hỷ đối sân, bố thí đối bỏn xẻn, tiến đối lui,
sanh đối diệt, pháp thân đối sắc thân, hoá
thân đối báo thân, ấy là mười chín đối
vậy.ế Sư bảo: ẹBa mươi sáu pháp đối này nếu biết
dùng thì thấu đạo và tất cả Kinh Pháp, ra
vào thường lià nhị biên. Dụng của tự tánh
chẳng cần tác ý, nói năng với người, ngoài
thì ở nơi tướng lià tướng, trong thì nơi
không lià không. Nếu trọn chấp tướng thì sanh
trưởng tà kiến, nếu trọn chấp không thì sanh trưởng
vô minh. Kẻ chấp không hay phỉ báng Kinh Phật, cho
là chẳng cần văn tự, đã nói chẳng cần văn tự
thì con người cũng không nên có lời
nói, cái lời nói tức là tướng văn tự. Lại
nói Ðạo ngay thẳng chẳng lập văn tự, thật ra hai chữ chẳng
lập cũng là văn tự vậy! Vừa nghe người thuyết pháp, liền
phỉ báng cho là dính mắc văn tự, các ngươi
phải biết, tự mê còn đỡ, lại phỉ báng Kinh Phật.
Chớ nên phỉ báng Kinh, để tạo nhiều tội chướng. Nếu chấp
tướng bên ngoài mà vọng lập phương pháp để
cầu chơn, hoặc rộng lập đạo tràng, nói các lỗi lầm
của CÓ và KHÔNG, những người như vậy nhiều kiếp
chẳng thể kiến tánh. Các ngươi phải dạy người theo
pháp tu hành, chớ nên trăm điều chẳng nghĩ,
làm cho đạo tánh bị ngăn ngại. Nếu thuyết pháp dạy
người, chớ nên nói ẹtự tánh vốn chẳng cần tu chứng,
nói như vậy e rằng kẻ mê chẳng hiểu, lại sanh tà
kiến. Chỉ nên dạy người theo pháp tu hành,
hành pháp thí mà chẳng trụ nơi pháp
tướng. Các ngươi nếu ngộ thì thuyết như vậy, dụng như
vậy, hành như vậy, tác như vậy tức không
đánh mất bản tông. Nếu có người đến hỏi
nghiã, hỏi có thì đáp không, hỏi
không thì đáp có, hỏi thánh
đáp phàm, hỏi phàm đáp thánh, nhị
biên làm nhân với nhau, sanh nghiã trung đạo.
Hỏi nào đáp nấy, tất cả các câu hỏi
khác đều đáp như thế thì chẳng mất cái
chánh lý vậy. Như có người hỏi thế nào
là tối? thì đáp sáng, hỏi thế nào
là sáng? thì đáp tối. Vì sáng
mất thì tối, tối mất thì sáng, dùng
sáng để tỏ sự tối, dùng tối để tỏ sự sáng, trở đi
trở lại làm nhân với nhau thành nghiã trung
đạo, tất cả câu hỏi đều phải như thế. Về sau các ngươi
truyền pháp, phải y theo đây mà dạy bảo, chớ
đánh mất tông chỉ.
Vào
tháng bảy năm Nhâm Tý, niên hiệu Thái
Cực Diên Hoà (712), Sư sai môn đồ đến Quốc Ân
Tự nơi Tân Châu để xây tháp, đốc thợ
làm gấp, đến mùa hè năm sau khánh
thành. Ngày mùng một tháng bảy, Sư tựu tập
đồ chúng bảo: Ðến tháng tám ta sẽ rời thế
gian, các ngươi có nghi cứ hỏi sớm đi, ta sẽ phá
nghi, khiến các ngươi hết mê hoặc, nếu ta đi rồi
thì chẳng ai dạy bảo. Các môn đồ nghe nói
thảy đều rơi lệ, chỉ có Thần Hội bình tĩnh chẳng động,
cũng chẳng rơi lệ. Sư nói: Chỉ có tiểu sư Thần Hội được
sự thiện bất thiện đồng nhau, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng
sanh, ngoài ra các ngươi đều chẳng được, bấy lâu
nay ở trên núi lại tu đạo gì? Nay các ngươi
rơi lệ là lo buồn cho ai? Nếu nói lo cho ta chẳng biết sẽ
đi về đâu, ta tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi thì
làm sao dự báo trước cho các ngươi? Các
ngươi rơi lệ vì chẳng biết chỗ ta đi, nếu biết chỗ ta đi
thì chẳng nên rơi lệ. Pháp tánh vốn chẳng
sanh diệt tới lui. Các ngươi hãy ngồi, ta nói với
các ngươi một bài kệ, gọi là CHƠN GIẢ ÐỘNG
TỊNH KỆ, các ngươi giữ lấy kệ này, theo đó tu
hành, chẳng đánh mất tông chỉ, thì
cùng ta đồng một ý chí. Ðại chúng đảnh
lễ, xin Sư làm kệ, kệ rằng:
- Nhất thiết vô hữu chơn,
- Bất dĩ kiến ư chơn.
- Nhược kiến ư chơn giả,
- Thị kiến tận phi chơn.
- Nhược năng tự hữu chơn,
- Ly giả tức tâm chơn.
- Tự tâm bất ly giả,
- Vô chơn hà xứ chơn.
- Hữu tình tức giải động,
- Vô tình tức bất động,
- Nhược tu bất động hạnh.
- Ðồng vô tình bất động,
- Nhược mích chơn bất động,
- Ðộng thượng hữu bất động.
- Bất động thị bất động,
- Vô tình vô Phật
chủng.
- Năng thiện phân biệt tướng,
- Ðệ nhất nghiã bất động.
- Ðản tác như thử kiến,
- Tức thị chơn như dụng.
- Báo chư học đạo nhơn,
- Nỗ lực tu dụng ý,
- Mạc ư đại thừa môn,
- Khước chấp sanh tử trí.
- Nhược ngôn hạ tương ứng,
- Tức cộng luận Phật nghiã.
- Nhược thật bất tương ứng.
- Hiệp chưởng linh hoan hỷ.
- Thử tông bổn vô tranh,
- Tranh tức thất đạo ý.
- Chấp nghịch tranh pháp
môn,
- Tự tánh nhập sanh tử.
- Dịch nghiã:
- Tất cả chẳng có chơn,
- Chớ nên cho là chơn.
- Nếu người thấy có chơn,
- Sự thấy đều chẳng chơn.
- Nếu được tự có chơn,
- Lià giả, tâm tức chơn.
- Tự tâm chẳng lià giả, (1)
- Làm sao có chỗ chơn?
- Hữu tình tất phải động,
- Vô tình thì bất
động.
- Nếu tu hạnh bất động,
- Ðâu khác loài
vô tình!
- Muốn tìm chơn bất động,
- Nơi động là bất động,
- Bất động (vô tình)
đã bất động,
- Vô tình vô Phật
chủng.
- Nếu người khéo phân biệt,
- Ðệ nhất nghiã bất động.
- Cái thấy được như vậy,
- Tức là chơn như dụng.
- Báo cho người học đạo,
- Siêng tu phải chú
ý.
- Chớ nên nơi đại thừa,
- Lại chấp trí sanh tử.
- Vừa nghe liền tương ưng,
- Cùng nhau luận nghiã
Phật.
- Nếu người chẳng tương ưng,
- Chắp tay khiến hoan hỷ.
- Tông này vốn vô
tranh,
- Tranh thì mất ý đạo.
- Kẻ trái nghịch pháp
môn,
- Tự tánh vào sanh tư.
GHI CHÚ:
(1) đúng
với sai, chân với giả..đều là giả. Kẻ trái nghịch
pháp môn, Tự tánh vào sanh tử.
Ðồ
chúng nghe xong thảy đều đảnh lễ, lãnh hội theo ý
của Sư, mọi người tự nhiếp tâm y pháp tu hành,
chẳng dám tranh luận nữa. Ðã biết Sư trụ thế chẳng
bao lâu, Thượng Tọa Pháp Hải lễ bái hỏi: Sau khi
Hoà Thượng viên tịch, y pháp nên trao
phó cho ai? Sư nói: Tất cả khai thị kể từ khi ta thuyết
pháp ở chùa Ðại Phạn đến nay, ghi chép lại để
lưu truyền cho đời sau, tựa là PHÁP BẢO ÐÀN
KINH, các ngươi phải hộ trì trao truyền cho nhau để
hoá độ chúng sanh, y theo Kinh này gọi là
Chánh Pháp. Nay chỉ vì các ngươi truyền
pháp mà chẳng truyền y bát, vì các
ngươi tín căn đã thuần thục, quyết định chẳng nghi, đều
có khả năng đảm nhiệm việc lớn của chư Phật chư Tổ truyền lại.
Vả lại theo ý bài kệ truyền thọ của Tổ Ðạt Ma
thì y cũng chẳng nên truyền. Kệ rằng:
Sư lại
nói: Các ngươi nếu muốn thành tựu nhất thiết chủng
trí, phải thấu ngộ nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam
muội. Ở tất cả nơi mà chẳng trụ tướng, nơi mọi tướng chẳng sanh
yêu ghét, cũng chẳng lấy bỏ, chẳng nghĩ việc lợi
ích thành bại, trong tâm trống rỗng dung
hoà, an nhàn đạm bạc, đây gọi là nhất tướng
tam muội. Ở tất cả nơi đi đứng nằm ngồi, duy nhất hành theo trực
tâm, nơi nào cũng là bất động đạo tràng, như
vậy mới thành chơn tịnh độ, đây gọi là nhất hạnh
tam muội. Nếu người đủ hai thứ tam muội này, như gieo giống dưới
đất, luôn luôn tưới nước và bón phân,
cuối cùng sẽ được quả chín. Nhất tướng nhất hạnh cũng như
vậy. Nay ta thuyết pháp dụ như mưa lớn, thấm nhuần đại địa, Phật
tánh của các ngươi giống như hạt giống, gặp mưa thấm
nhuần liền được sanh trưởng. Nối theo tông chỉ của ta quyết
thành Bồ đề, hành theo pháp ta ắt chứng diệu quả,
hãy nghe kệ đây:
Sư thuyết kệ
xong nói: Pháp chẳng có hai, tự tâm cũng
vậy, đạo vốn thanh tịnh (trong sạch), cũng chẳng các tướng.
Các ngươi cẩn thận, chớ nên quán tịnh và
chấp không nơi tâm, tự tâm vốn thanh tịnh, chẳng thể
lấy bỏ. Mọi người cứ tùy duyên mà đi, hãy cố
gắng tu hành! Ðồ chúng nghe xong đảnh lễ lui ra.
Ngày
mùng 8 tháng 7, Sư bỗng gọi môn đồ: Ta muốn về
Tân Châu, hãy mau lo ghe thuyền. Ðại
chúng đều năn nỉ ở lại, Sư nói: Chư Phật ra đời
còn phải thị hiện Niết Bàn, có đến thì
có đi, lý thường như vậy, thể xác của ta tất phải
có chỗ về. Chúng nói: Sư từ nay đi, chừng
nào trở về? Sư nói: Lá rụng về cội, trở về chẳng
nói. Lại hỏi: Chánh Pháp Nhãn Tạng truyền
phó cho ai? Sư nói: Người có đạo thì được,
người vô tâm thì thông. Lại hỏi: Chưa biết xưa
nay chư Phật chư Tổ ứng hiện, truyền thọ được bao nhiêu đời? Xin
Sư cho biết. Sư nói: Cổ Phật ứng thế đã vô số
lượng, chẳng thể tính được, nay từ thất Phật bắt đầu: Quá
khứ Trang Nghiêm Kiếp: Tỳ Ba Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ
Xá Phù Phật. Hiện tại Hiền Kiếp: Câu Lưu Tôn
Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật,
Thích Ca Mâu Ni Phật, ấy là thất Phật. Thích
Ca Văn Phật đầu ti&eci
- Tâm ta tự có Phật,
- Tự Phật là chơn Phật.
- Nếu tự chẳng Phật tâm,
- Nơi nào tìm chơn Phật?
Các ngươi
tự tâm là Phật, chớ hồ nghi nữa. Vạn pháp đều từ tự
tâm sanh khởi, chẳng phải vật bên ngoài có
thể kiến lập. Nên Kinh nói: Tâm sanh thì mọi
pháp sanh, tâm diệt thì mọi pháp diệt." Nay
ta để lại bài kệ để làm lời từ biệt, gọi là: TỰ
TÁNH CHƠN PHẬT KỆ, người đời sau nhận được ý của kệ
này, tự thấy bản tâm, tự thành Phật đạo. Kệ rằng:
- Chơn như tự tánh thị chơn Phật,
- Tà kiến tam độc thị ma vương.
- Tà mê chi thời ma tại
xá,
- Chánh kiến chi thời Phật tại
đường.
- Tánh trung tà kiến tam
độc sanh,
- Tức thị ma vương lai trụ xá.
- Chánh kiến tự trừ tam độc
tâm,
- Ma biến thành Phật chơn
vô giả.
- Pháp thân báo
thân cập hoá thân,
- Tam thân bổn lai thị nhất
thân.
- Nhược hướng tánh trung năng tự
kiến,
- Tức thị thành Phật Bồ đề
nhân.
- Bổn tùng hoá thân
sanh tịnh tánh,
- Tịnh tánh thường tại hoá
thân trung.
- Tánh sử hoá thân
hành chánh đạo,
- Ðương lai viên mãn
chơn vô cùng.
- Dâm tánh bổn thị tịnh
tánh nhân,
- Trừ dâm tức thị tịnh tánh
thân.
- Tánh trung các tự ly ngũ
dục,
- Kiến tánh sát na tứ thị
chơn.
- Kim sanh nhược ngộ đốn giáo
môn,
- Hốt ngộ tự tánh kiến Thế
Tôn.
- Nhược dục tu hành mích
tác Phật,
- Bất tri hà xứ nghĩ cầu chơn.
- Nhược năng tâm trung tự kiến
chơn,
- Hữu chơn tức thị thành Phật
nhân.
- Bất kiến tự tánh ngoại
mích Phật,
- Khởi tâm tổng thị đại si nhơn.
- Ðốn giáo pháp
môn kim dĩ lưu,
- Cứu độ thế nhơn tu tự tu.
- Báo nhữ đương lai học đạo giả,
- Bất tác thử kiến đại du du.
- Dịch nghiã:
- Chơn như tự tánh là chơn
Phật,
- Tà kiến tam độc là ma
vương.
- Lúc tà mê khởi ma
tại nhà,
- Khi có chánh kiến Phật
tại điện,
- Tâm nổi tà kiến tam độc
sanh,
- Tức là ma vương đến nhà
ở.
- Chánh kiến khởi lên tam
độc trừ,
- Ma trở thành Phật thật chẳng
giả.
- Pháp thân báo
thân và hoá thân,
- Tam thân vốn chỉ là nhất
thân.
- Nếu được tự thấy nơi tự tánh,
- Gieo nhân Bồ Ðề tức
thành Phật.
- Vốn từ hoá thân sanh tịnh
tánh,
- Tịnh tánh thường trụ nơi
hoá thân.
- Tánh khiến hoá
thân hành chánh đạo,
- Tương lai viên mãn
vô cùng tận.
- Dâm tánh vốn là
nhân tịnh tánh,
- Trừ dâm tức là tịnh
tánh thân.
- Nơi tánh thường tự lià
ngũ dục,
- Sát na kiến tánh tức
là chơn.
- Ðời nay nếu gặp pháp đốn
giáo,
- Hoát ngộ tự tánh gặp Thế
Tôn.
- Người nếu tu hành cầu
làm Phật,
- Chẳng biết nơi nào để cầu chơn.
- Nếu ngay nơi tâm tự thấy chơn,
- Có chơn tức là
nhân thành Phật.
- Chẳng thấy tự tánh,
ngoài tìm Phật,
- Khởi tâm tìm Phật
là si mê.
- Pháp môn đốn giáo
nay đã truyền,
- Cứu độ chúng sanh phải tự tu.
- Báo cho tương lai người học đạo,
- Chẳng theo chánh kiến
mãi mãi chìm.
Sư thuyết kệ
xong, bảo: Các ngươi phải tự hộ trì, sau khi ta
viên tịch, chớ nên theo tình chấp thế gian rơi lệ
buồn sầu, nhận phúng điếu và để tang, làm như vậy
chẳng phải đệ tử của ta, cũng chẳng phải Chánh Pháp. Chỉ
nên nhận tự bản tâm, thấy tự bản tánh, chẳng động
chẳng tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng lui chẳng tới, chẳng thị chẳng
phi, chẳng trụ chẳng đi. Vì sợ các ngươi tâm
mê, chẳng hiểu ý ta, nay nhắc lại lần nữa, khiến
các ngươi tự thấy tánh. Sau khi ta viên tịch, theo
đây tu hành, cũng như ta còn tại thế, nếu
trái với lời dạy của ta, dẫu cho ta còn tại thế, cũng
đâu có ích lợi gì! Lại thuyết kệ rằng:
Sư thuyết kệ
xong, ngồi ngay cho đến canh ba, thoạt gọi môn đồ: Ta đi
nhé!, liền ngồi yên viên tịch. Ngay lúc ấy
có mùi hương lạ thơm khắp núi, mống trắng mọc
vòng cầu chấm đất, rừng cây biến thành màu
trắng, cầm thú kêu vang thảm thiết. Ðến tháng
Mười một, các quan chức và Tăng tục ba quận Quảng
Châu, Thiều Châu, Tân Châu tranh nhau
giành rước nhục thân của Sư, chẳng quyết định được về
đâu, bèn cùng nhau đốt hương nguyện rằng:
Khói hương bay về đâu thì nhục thân của Sư về
đó. Lúc ấy khói hương bay thẳng về hướng
Tào Khê. Ngày 13 tháng 11, dời khám
thờ nhục thân và y bát của Sư về Tào
Khê. Ngày 25 tháng 7 năm sau mở khám để nhập
tháp. Quan sở tại Thiều Châu dâng biểu tâu
lên triều đình, vua sắc chỉ lập bia ghi đạo hạnh của Sư:
Tổ Sư 76 tuổi, năm 24 tuổi được truyền y pháp, 39 tuổi xuống
tóc, thuyết pháp lợi sanh 37 năm, người đắc tông
chỉ nối pháp được 43 vị, người nghe pháp ngộ đạo
siêu phàm thì chẳng biết số lượng. Tín y
truyền từ Tổ Ðạt Ma, với cái y bát của vua Trung
Tôn ban cho, cái chơn tượng do Phương Biện đắp, và
toạ cụ của Sư, thảy đều giao cho thị giả giữ tháp, đời đời thờ
nơi BỬU LÂM ÐAO TRÀNG. Lưu truyền PHÁP BẢO
ÐÀN KINH để hiển bày tông chỉ, hưng thạnh Tam
Bảo, phổ biến lợi ích cho chúng sanh.
Tỳ Kheo
Thích Duy Lực
Dịch và Lược
Giải
|